THIÊN QUAN TỨ PHÚC

Quyển 3 - Chương 97: Đêm trắng đề chữ, hồng tụ thiêm hương

trước
tiếp

Vấn đề này, thật ra lòng Tạ Liên đã lờ mờ có đáp án. Tuy nhiên, phản ứng của Hoa Thành lại khác hẳn dự đoán của y.

Lặng thinh giây lát, Hoa Thành chợt lên tiếng: “Xin lỗi.”

Tạ Liên ù ù cạc cạc: “Gì cơ?”

Ban đầu y cho rằng, nếu “Thiên Đăng quán” không phải là chuyện nhầm lẫn xấu hổ gì, vậy thì người có khả năng liên quan đến nó nhất chỉ có mỗi Hoa Thành mà thôi. Nhưng mặc cho suy đoán của Tạ Liên có đúng không, Hoa Thành cũng chẳng có lý do gì phải xin lỗi.

Hoa Thành không trả lời, chỉ ra hiệu cho y cùng mình đi về phía trước, Tạ Liên bèn đi theo hắn. Hai người đi một hồi, mới vừa rẽ ngoặt, tầm nhìn bỗng trở nên rộng thoáng, một tòa đạo quán dập dờn linh quang lẳng lặng hiển hiện trước mắt Tạ Liên.

Trong nháy mắt, hơi thở của y cũng đình trệ.

Bốn phương tám hướng đều là cảnh quỷ vực tối đen xen lẫn màu đỏ thẫm, mà trong vòng vây ấy, tòa đạo quán này nguy nga tráng lệ, ngàn ngọn đèn rực sáng, tựa như chốn bồng lai tiên cảnh.

*Quỷ vực: nơi quỷ hồn lui tới, lãnh địa của quỷ.

Một tòa đạo quán mang nền tảng chói sáng và huy hoàng lại tọa lạc ở nơi rồng rắn lẫn lộn, chúng quỷ lộng hành như chợ Quỷ, tuy chẳng hợp tí nào, nhưng lại khiến người ta rung động không thôi. Ngay khoảnh khắc đập vào mắt, nó sẽ để lại ấn tượng sâu sắc khó mà phai nhạt trong đầu người nhìn. Hồi lâu sau, Tạ Liên mới cất giọng: “…Đây là…”

Đứng trước tòa đạo quán, hai người đều ngẩng đầu nhìn lên. Hoa Thành cũng khẽ ngước đầu, nói: “Mấy ngày trước là Tết Trung thu, ta nghĩ ca ca lên Thượng thiên đình chắc cũng phải tham gia trò chơi nhạt nhẽo hằng năm của bọn đó, vậy nên mới dựng chỗ này, tìm chút trò vui giúp ca ca giải buồn khi dự tiệc.”

“…”

Cách “giải buồn” của hắn không khỏi khiến người ta trố mắt. Vì “tìm chút trò vui” cho Tạ Liên mà dựng hẳn cái quán, còn thắp ba ngàn ngọn đèn Trường Minh cầu phúc!

Hoa Thành cúi đầu chỉnh lại cổ tay áo, nói tiếp: “Lẽ ra không muốn cho huynh biết, cũng tại ta tự tiện sắp xếp, xây quán của ca ca ở nơi hỗn tạp này của ta, mong ca ca đừng trách.”

Tạ Liên lập tức lắc đầu. Không ngờ Hoa Thành lại cảm thấy mình gây thêm phiền phức cho y nên mới không muốn cho y biết, Tạ Liên thật sự không biết nên nói gì cho phải. Đến nước này rồi, lại nói cảm ơn thì vô nghĩa quá, Tạ Liên bèn ổn định cảm xúc, hít sâu một hơi, tập trung thưởng thức tòa “Thiên Đăng quán” này. Lát sau, y nghiêng đầu hỏi: “Tòa đạo quán này đẹp đẽ rộng thoáng, tinh xảo diệu kỳ, nào phải công sức ngày một ngày hai, chắc không phải Tam Lang mới xây gần đây đâu nhỉ?”

Hoa Thành cười đáp: “Dĩ nhiên không phải rồi. Ca ca nhìn chuẩn lắm, nơi này đã xây xong từ sớm, khổ nỗi không biết dùng vào đâu, vì vậy ta vẫn luôn cất giấu, đồng thời cũng chưa từng cho người khác đặt chân vào. Quả thật phải cảm ơn ca ca giúp nó cuối cùng cũng tìm được chỗ dùng, nên giờ mới thấy được ánh mặt trời.”

Nghe vậy, Tạ Liên lại khẽ thở phào một hơi.

Nếu đã xây xong từ sớm, nhưng một mực không có chỗ dùng, xem ra ban đầu hẳn là định dùng cho việc khác, bây giờ tiện tay lấy ra dùng thôi. Bằng không nếu Hoa Thành thật sự xây riêng một tòa đạo quán cho y, y sẽ càng bứt rứt. Dĩ nhiên theo tính cách của Hoa Thành, rất có thể chỉ đơn thuần vì xây chơi mà thôi. Mặc dù Tạ Liên vô cùng tò mò, ban đầu Hoa Thành xây một tòa kiến trúc khác xa chợ Quỷ như thế là định dùng cho việc gì, nhưng y vẫn kiềm chế xung động muốn hỏi. Hỏi nhiều quá không phải là thói quen tốt, ai biết khi nào lỡ miệng hỏi trúng điều không nên hỏi chứ?

Hoa Thành nói: “Vào xem nhé?”

Tạ Liên vui vẻ đáp: “Tất nhiên rồi.”

Hai người sóng vai bước chậm vào trong quán, khoan thai sải bước trên nền đất trải ngọc thạch. Tham quan khắp nơi, trong quán rộng rãi sáng sủa, nhưng lại không có tượng thần, cũng không có đệm hương bồ cho tín đồ quỳ lạy. Hoa Thành nói: “Gấp rút khánh thành, còn nhiều chỗ sơ suất không chu toàn lắm, mong ca ca rộng lòng bỏ qua.”

Tạ Liên mỉm cười: “Không đâu. Ta cảm thấy tốt lắm, tốt vô cùng. Không có tượng thần và đệm hương bồ thì vừa khéo, cứ không có là tốt nhất. Nhưng mà, vì sao ngay cả bức hoành cũng không có?”

Câu hỏi này tuyệt nhiên không phải hạch sách, chỉ là trong quán có vài chỗ lát ngọc thạch hình hoa cỏ được tỉ mỉ chạm trổ hoa văn chìm của “Thiên Đăng quán”, thế mà bức hoành ngoài mặt tiền lại chưa được treo lên, dĩ nhiên không phải vì gấp rút, thế nên Tạ Liên mới tò mò hỏi.

Hoa Thành cười đáp: “Hết cách thôi. Chỗ ta không có người nào biết viết chữ, huynh nhìn cái đám ban nãy đi, biết chữ là đỡ lắm rồi. Ca ca có thích bậc thầy thư pháp nào không? Ta mời tới viết bức hoành này cho huynh, hoặc là ta cho rằng, cách tốt nhất là ca ca tự đến viết một bức, treo tại Thiên Đăng quán này. Vậy còn gì tuyệt hơn.”

Nói đoạn, Hoa Thành chỉ tay về hướng bàn thờ trong đại điện. Chiếc bàn ngọc cực dài cực rộng, bên trên đặt chút đồ cúng và một lư hương ngăn nắp gọn ghẽ, ngoài ra còn bày giấy bút nghiên mực, mùi sách thanh thuần. Hai người bước lên phía trước, Tạ Liên nói: “Vậy chi bằng, mời Tam Lang đến viết giúp ta nha.”

*Mùi sách (nguyên văn là thư hương 书香): Ngày xưa người ta ép một loại cỏ thơm vào sách để chống mối mọt, mở sách ra sẽ ngửi được mùi hương của cỏ này.

Nghe vậy, Hoa Thành mở to mắt, dường như không ngờ được Tạ Liên sẽ nói thế, hỏi: “Ta?”

Tạ Liên đáp: “Ừ.”

Hoa Thành chỉ vào chính mình, hỏi tiếp: “Muốn ta viết thật sao?”

Như phát hiện được gì đó, Tạ Liên hỏi: “Tam Lang có chỗ nào khó xử à?”

Hoa Thành nhướn một bên lông mày: “Khó xử thì không, chỉ là…”

Thấy Tạ Liên vẫn chờ mình trả lời, Hoa Thành chắp tay sau lưng, có vẻ hơi bất đắc dĩ: “Được rồi. Chỉ là, ta viết không được tốt.”

Vậy thì lạ quá. Tạ Liên thật sự không thể tưởng tượng được, Hoa Thành cũng có chuyện không làm tốt. Y cười nói: “Ồ? Vậy sao, viết một chữ xem thử nhé?”

Hoa Thành hỏi lại lần nữa: “Muốn ta viết thật sao?”

Tạ Liên lấy vài tờ giấy trắng, trải ngay ngắn trên bàn ngọc, tận tụy tự tay vuốt phẳng, sau đó chọn một chiếc bút lông thỏ hợp mắt, đưa đến tay Hoa Thành, nói: “Qua đây.”

Thấy Tạ Liên đã chuẩn bị đâu vào đấy, Hoa Thành nói: “Được rồi. Nhưng mà, không được cười.”

Tạ Liên gật đầu: “Dĩ nhiên.”

Thế là Hoa Thành bèn nhận bút, bắt đầu viết một cách nghiêm túc. Tạ Liên ở bên cạnh nhìn, nhưng càng nhìn, sắc mặt càng biến đổi khôn lường.

Thật lòng y muốn nhịn lắm, nhưng vẫn không tài nào nhịn nổi. Hoa Thành vừa viết bừa vẽ bậy trên giấy, vừa dùng giọng điệu nửa cảnh cáo nửa đùa cợt nói với y: “Ca ca.”

Tạ Liên lập tức chỉnh lại sắc mặt, nói: “Lỗi của ta.”

Y cũng không muốn đâu, nhưng mà còn cách nào nữa chứ. Chữ viết của Hoa Thành, thật sự quá buồn cười!!

Cho dù là Cuồng Thảo* điên rồ nhất mà Tạ Liên từng nhìn thấy cũng chẳng ngông cuồng bằng nửa phần Hoa Thành, trong ngông cuồng còn kéo theo một luồng gió tà đạo ập thẳng vào mặt, chỉ e sẽ thổi cho các bậc thầy thư pháp trợn trắng mắt chết ngất luôn. Tạ Liên vất vả soi cả buổi mới miễn cưỡng phân biệt được mấy chữ “biển cả”, “nước”, “núi Vu”, “mây” nguệch ngoạc như gà bới, đoán chừng Hoa Thành hẳn đang viết “Từng đi biển cả, nước hề chi. Trừ núi Vu ra, chẳng có mây”.

*Chữ Thảo là một kiểu viết chữ Hán của thư pháp Trung Hoa rất khó đọc. Đến thời nhà Đường, chữ Thảo lại phát triển thêm một bước với lối viết càng ngày càng phóng khoáng và trở thành Cuồng Thảo (chữ Thảo viết một cách điên cuồng), kiểu viết này gần như không thể đọc được.

*Từng đi biển cả, nước hề chi. Trừ núi Vu ra, chẳng có mây (mượn lời dịch thơ của Nguyễn Phước Hậu, Hán Việt là “Tằng kinh thương hải nan vi thủy. Trừ khước Vu sơn bất thị vân”): ý bảo đã từng ra biển lớn thì nước sông hồ khó gọi là nước, ngoại trừ mây ở núi Vu, những chỗ khác chưa phải là mây.

Nghĩ đến Hoa Thành thân là bá chủ một phương ở Quỷ giới, người mà thần sợ quỷ cũng sợ, cuối cùng lại bày ra vẻ mặt này ở một chuyện nào đó, hơn nữa còn là chuyện viết chữ, Tạ Liên cố nín cười đến nỗi rút gân bụng. Y dùng hai tay cầm tác phẩm mà Hoa Thành vung tay một cái là viết xong, cố giả vờ điềm tĩnh, nói: “Ừm. Có cá tính lắm, tự tạo lập một trường phái riêng. Có “phong cách”.”

Hoa Thành đặt bút xuống, tư thế cũng ra dáng lắm, hắn liếc mắt cười nói: “Phong trong phát phong hả.” (phát phong = phát rồ)

Tạ Liên làm bộ không nghe thấy, trịnh trọng bình luận: “Thật ra viết đẹp không khó, viết ra “phong cách” của mình mới là khó. Nếu chỉ đẹp nhưng lại đẹp rập khuôn thì cũng tầm thường thôi. Nét bút của Tam Lang tốt lắm, có phong cách đại gia, khí thế nuốt chửng núi sông…” Tiếp sau còn tám chữ nữa: Núi sông nát bấy, ngựa chạy người tan. Cũng hết cách thôi, bịa ra lời khích lệ người khác cũng cực nhọc lắm. Hoa Thành nghe mà một bên lông mày càng nhướn cao hơn, ngờ vực hỏi: “Thật ư?”

Tạ Liên nói: “Ta đã bao giờ gạt Tam Lang chưa?”

Hoa Thành thong thả thêm vài nén nhang mới vào lư hương nhỏ bằng vàng đặt bên cạnh, giữa làn khói thơm dịu, hắn làm bộ hờ hững nói: “Ta cũng muốn viết đẹp lắm. Tiếc rằng chẳng ai dạy bảo, không biết bên trong có bí quyết gì không.”

Lời này của Hoa Thành đã hỏi đúng người. Tạ Liên trầm ngâm đáp: “Thật ra cũng không có bí quyết gì, chỉ là…” Nghĩ tới nghĩ lui, cuối cùng cảm thấy không thể nói hết bằng lời, y bèn nhích lại gần, tự mình nâng bút, đặt bút viết vài dòng cạnh câu thơ mà Hoa Thành viết trên tờ giấy, động tác liền mạch lưu loát, viết xong ngắm nghía giây lát rồi mỉm cười than thở: “Ngại quá. Bao năm rồi ta không có cơ hội viết chữ, nay không bằng xưa.”

Hoa Thành nhìn chằm chằm bốn hàng chữ mang phong cách lạ lẫm khác mình một trời một vực trên giấy, đặc biệt là hai câu nối sau của Tạ Liên — “Lướt qua bụi hoa, chẳng ngoái đầu. Nửa vì tu đạo, nửa tình si”. Hoa Thành nhìn cả mạch thơ hết lần này đến lần khác, ánh mắt lưu luyến quên lối về. Hồi lâu sau, hắn ngẩng đầu lên nói: “Cầu chỉ giáo?”

*Lướt qua bụi hoa, chẳng ngoái đầu. Nửa vì tu đạo, nửa tình si (Hán việt là “Thủ thứ hoa tùng lãn hồi cố. Bán duyên tu đạo, bán duyên quân”): ý bảo có gặp người đẹp anh cũng lười quay đầu, một phần vì nay anh tu đạo, một phần chỉ nghĩ tới em thôi.

Tạ Liên đáp: “Chỉ giáo thì không dám.” Thế là y bèn nói cho Hoa Thành biết nội dung nhập môn cơ bản, không giấu diếm gì, dốc hết tâm đắc tập viết thư pháp của mình thuở thiếu thời, tận tâm dạy bảo Hoa Thành.

Khói nhang lượn lờ, đèn sáng như sao, Tạ Liên nghiêm túc giảng giải, Hoa Thành chăm chú lắng nghe. Trong đại điện, lời nhỏ tiếng nhẹ, cảnh tượng lẫn tiếng nói đều vô cùng nhu hòa. Qua một hồi, Tạ Liên nói: “Đệ thử lại xem sao?”

Hoa Thành “ồ” một tiếng, nhận bút, có vẻ rất nghiêm túc viết mấy chữ. Tạ Liên đứng bên cạnh nhìn, khoanh hai tay, nghiêng đầu nói: “Khá thú vị. Có điều…”

Có điều y cảm thấy Hoa Thành hạ bút không đúng chỗ nào. Nhíu mày quan sát chốc lát, Tạ Liên đột nhiên phát hiện rốt cuộc không đúng chỗ nào — Hoa Thành căn bản không cầm bút đúng cách.

Ngay cả tư thế cầm bút cũng loạn xà ngầu, làm sao viết đúng cho được!

Tạ Liên dở khóc dở cười, đứng nhích lại gần hơn, không nghĩ ngợi nhiều mà chìa tay sửa lại cho đúng, nói: “Cách cầm bút của đệ sai rồi, phải cầm thế này…”

Vừa chìa tay, Tạ Liên chợt phát hiện coi bộ không ổn lắm. Hai người nào phải thầy đồ và trò nhỏ, dạy kiểu tay cầm tay như thế khó tránh thân mật hơi quá. Nhưng đã chìa tay nào có đạo lý tùy tiện rút về, làm vậy trái lại càng giống cố ý. Thế nên sau một hồi do dự, Tạ Liên vẫn không rút tay về. Nghĩ đi nghĩ lại, lần trước tại sòng bạc Quỷ, chẳng phải Hoa Thành cũng tay cầm tay dạy y đổ xí ngầu sao? Dù rằng Tạ Liên cảm thấy lần đó chẳng học được gì sất, sau khi xong việc còn loáng thoáng có cảm giác bị mắc lừa, nhưng lần này y thật lòng muốn dạy Hoa Thành một ít thứ. Vì vậy, Tạ Liên yên tâm áp lòng bàn tay ấm áp của mình lên mu bàn tay lạnh buốt của Hoa Thành, nhẹ nhàng cầm tay hắn, bắt đầu dẫn dắt thế bút của hắn di chuyển, nói nhỏ: “Như này nè…”

Phát hiện thế bút cuồng loạn của Hoa Thành dưới tay mình, Tạ Liên khẽ dùng sức khống chế, uốn nắn trở lại. Chưa được bao lâu, Tạ Liên lại phát hiện thế bút dưới tay càng thêm cuồng loạn, vượt tầm khống chế, y buộc lòng phải cầm chặt hơn nữa. Chữ mà hai người góp sức viết ra méo mó nguệch ngoạc, nhìn không chịu thấu, Tạ Liên càng viết càng thấy không ổn, không kiềm được mà lên tiếng: “Này…”

Như thể giở trò xấu thành công, Hoa Thành bật ra tiếng cười trầm thấp. Mực vẽ loạn xạ trên giấy, Tạ Liên nói bằng giọng bất đắc dĩ: “Tam Lang à… đừng như vậy mà. Ngoan ngoãn học, ngoan ngoãn viết.”

Hoa Thành nói: “Ồ.”

Nhìn là biết lại làm bộ nghiêm túc rồi. Tạ Liên lắc đầu, không biết nên khóc hay nên cười.

Mặc dù tay Hoa Thành lạnh ngắt, nhưng khi Tạ Liên cầm trong tay, chẳng hiểu sao cứ như cầm que sắt nóng, khiến y không dám dùng thêm sức. Lúc này, khóe mắt Tạ Liên bỗng lia đến bên mép bàn rồi ngừng lại.

Y đưa mắt nhìn sang, chỉ thấy một đóa hoa nho nhỏ đơn côi đặt bên góc bàn ngọc.

____________

Đây là bài thơ thứ 4 trong “Năm Bài Tử Biệt” của Nguyên Chấn. Ông làm bài này năm 810 để truy điệu vợ là Vi Tùng qua đời năm trước. Núi Vu, tên rặng núi bên sông Trường Giang, chỗ tiếp giáp hai tỉnh Tứ Xuyên và Hồ Bắc, nơi tương truyền có nữ thần làm ra mây mưa trú ngụ. Tằng kinh thương hải nan vi thủy

Trừ khước Vu sơn bất thị vân

Thủ thứ hoa tùng lãn hồi cố

Bán duyên tu đạo, bán duyên quân.



Vui lòng click vào dấu mũi tên để lùi hoặc sang chương kế tiếp