LINH HỒN NỔI LOẠN

Chương 51

trước
tiếp

LINH HN NI LON

Tác gi: Phi Thiên D Tường

Người dch: Tàng Thư Quán

“Nước cổ Ba Thục chẳng phải đã diệt vong cả hơn hai ngàn năm trước rồi sao?”. Lâm Cảnh Phong búng tay ra hiệu cho Triển Hành.

Triển Hành lập tức đọc thuộc lòng như người máy: “Văn minh Ba Thục là một trong những nền văn minh cổ thần bí và rực rỡ nhất ở vùng Xuyên – Du Trung Quốc, không rõ nguồn gốc hình thành, suy đoán theo nghiên cứu mới nhất được đưa ra, thì là do người ngoài hành tinh và người địa cầu kết hôn với nhau…”.

Lâm Cảnh Phong: “Mấy thứ suy đoán thì khỏi nói”.

Triển Hành: “Hẳn là nền văn minh này là tiêu biểu của nền văn hóa thanh đồng và khắc đá, vượt qua cả kỹ thuật luyện kim thời đó gần trăm năm, đạt đến cực thịnh vào thời kỳ Ân Thương và suy thoái vào khoảng thời gian kéo dài tám trăm năm của nhà Chu, đến thời Xuân Thu Chiến Quốc thì bắt đầu kết hợp lại với các vùng đất Trung Nguyên, lấy mặt nạ đầu tù trưởng làm đồ đằng tượng trưng…”.

Trương Huy: “Đúng vậy! Cậu cũng biết cơ à?”.

Triển Hành: “Bức tượng được khai quật ra khỏi mộ cổ Tam Tinh Đôi đã tái hiện rõ nét nhất về toàn cảnh nền văn minh thời đó, từ sau giai đoạn Xuân Thu cho đến khi nước Tần thống nhất thiên hạ, các nước Triệu, Tần đều đã từng xua quân đánh Ba Thục, trong đó có hai lần ầm ĩ nhất, lần thứ nhất do Lý Mục dẫn quân, lần thứ hai do Vương Tiễn cầm đầu. Cuối cùng Doanh Chính thống nhất sáu nước, ra lệnh cho thiên hạ viết cùng một loại văn tự, tuân theo cùng một loại phép tắc, năm Tần Thủy Hoàng thứ mười một, Mông Điềm dẫn binh tới vùng Ba Thục, đây là lần hành động quân sự có tính hủy diệt đối với cổ quốc Ba Thục, chấm dứt hoàn toàn một quốc gia có văn minh kéo dài gần ngàn năm lịch sử”.

Mọi người im lặng lắng nghe, Trương Huy nói: “Sau đó thì sao?”.

Triển Hành: “Sau đó? Thì hết rồi, trên sách không có viết lại”.

Trương Huy nói: “Còn đấy, chẳng qua nó không được ghi chép lại trên sách vở của các cậu thôi”.

“Ba Thục là một đất nước không thờ “Thần”, thậm chí không có nhiều đồ đằng”. Trương Huy nói: “Trong tộc phân chia thành Tộc Trưởng và Tư Tế, cũng chính là hai thế lực “vương” và “vu”. Vương luôn luôn là phụ nữ, gọi là “Bặc Mẫu”, còn vị trí của vu thì do đàn ông đảm nhiệm, gọi là “Tư Tế” đấy”.

Triển Hành nói: “Chuyện này thì em biết, bởi vì nền văn minh đó bắt đầu từ thời đại Ân Thương, nên không có thói quen bái tế thần linh trời đất, bất kể là người Trung Nguyên hay người Ba Thục, năng lực cúng bái và bói toán đều xuất phát từ cùng một điểm, chính là linh hồn. Họ không bái thiên địa, mà cúng bái linh hồn người chết và tổ tiên, tin rằng tổ tiên sẽ phù hộ cho tất cả mọi người. Cho nên cúng hồn trở thành hoạt động cầu khấn và bái tế chủ yếu được họ tiến hành hàng ngày, ví dụ như khi muốn gieo trồng, họ sẽ lắc mai rùa, hỏi linh hồn của tổ tiên xem hôm nay phải làm gì mới phù hợp”.

Trương Huy gật đầu, tự nhấp một ngụm rượu: “Sau khi Ba Thục diệt vong, người trong tộc bắt đầu phân tán, một bộ phận trong đó chạy vào vùng Vân Quý, trở thành kẻ ngoại lai, còn một bộ phận khác thì đi sâu vào Thập Vạn Đại Sơn. Phương pháp tế tự cũ dần bị người dân tộc thiểu số vùng Tây Nam đồng hóa, rồi bắt đầu bái tế đồ đằng thiên nhiên. Trong đó có một nhánh hậu duệ gọi là “Bặc”, các cậu từng nghe đến chưa?”.

Lâm Cảnh Phong lập tức nói: “Nghe rồi, ở huyện Củng của Tứ Xuyên”.

Trương Huy: “Đó chính là nơi dừng chân đầu tiên của bọn họ. Người Bặc định cư ở Xuyên Nam và Xuyên Tây, phát triển thịnh vượng một lần nữa, năng lực của họ mạnh vô cùng…”.

Lâm Cảnh Phong mỉm cười nói: “Mạnh đến cỡ nào?”.

Trương Huy đáp: “Phương pháp nuôi cổ và thả cổ đều do người Bặc mang đến, rồi truyền lại cho ba mươi sáu tộc bao gồm Miêu, Di, Động, cậu không biết à? Khi cháu Hậu Nghệ đi đến sông Diêm, đã quen biết với Diêm Nữ, thân thể thật của bà ta là một bầy sâu bay, bà ta bắt ông ấy phải định cư bên bờ sông Diêm, gây dựng nên quốc gia của riêng mình, hứa rằng sẽ che chở bọn họ đời đời”.

Triển Hành hít sâu một hơi: “Hình như có truyền thuyết này thật”.

Trương Huy nói: “Bà ta chính là Cổ Thần đời thứ nhất, còn Lẫm Quân – con cháu của Hậu Nghệ đương thời – trở thành Tư Tế, Diêm Nữ thì làm Bặc Mẫu, che chở cho cả nước cổ Ba Thục, đồng thời truyền lại năng lực vu cổ và gọi hồn cho đời tiếp theo. Các cậu không phát hiện ra nguồn gốc của chữ “Bặc” (僰) à? Phía trên chữ “nhân” (人) chính là ký hiệu tượng hình của hai con sâu bay đấy”.

Mọi người rào rào gật đầu, Trương Huy lại nói: “Vào cuối thời Tần có rất nhiều người không dám tự xưng mình là dân di cư từ Ba Thục đến nữa, họ gọi mình là người tộc Bặc, có thù oán sâu nặng với người Hán, trải qua ngàn năm, mãi đến thời Minh, Chu Đệ mới tiễn hành lần diệt trừ quy mô lớn với tộc Bặc”.

“Toàn bộ người Bặc thời đó đều rút đi, chạy tản mác vào khu Vân Quý, hòa chung với ba mươi sáu tộc khác, gần như bị diệt cả tộc”.

Lâm Cảnh Phong: “Thế rồi sao?”.

Mấy người họ đều dần dần đoán được trọng tâm của câu chuyện này, Trương Huy chắc chắn có quan hệ với người Bặc.

Trương Huy nói: “Chuyện cuối cùng xảy ra là vào hơn bốn trăm năm trước, Bặc Mẫu đời đó chết, nhưng bà ấy không để lại cổ Thần Quang”.

Triển Hành: “Cổ Thần Quang là cái gì?”.

Trương Huy: “Cổ Thần Quang và cổ Tinh Thần là hai loại thần trùng đảm nhận việc lựa chọn đời Tư Tế và Bặc Mẫu tiếp theo, sau khi Tư Tế và Bặc Mẫu đời này chết, trên thi thể bọn họ đều có một con cổ vương bay ra, cổ vương sẽ đáp lên mình một người nào đó trong tộc, đại biểu rằng người đó sẽ là thủ lĩnh mới. Đa phần là con nối dõi của Tư Tế và Bặc Mẫu, chỉ khi nào họ không có con nối dõi thì nó mới chọn bé trai hoặc bé gái từ mười tuổi trở xuống, hoàn thành nghi thức chọn người kế tục”.

Lâm Cảnh Phong cảm thấy sống lưng lạnh buốt, hỏi: “Bị cổ vương nhập vào người là có thể làm Tư Tế? Vậy điều khiển người đó là cổ vương hay vẫn là bản thân người đó?”.

Trương Huy ngạc nhiên nói: “Đương nhiên vẫn là bản thân người đó, cổ vương gần như không có ý thức, cậu không hiểu à?”.

Hoắc Hổ chen miệng vào: “Vụ này giống chuyện luân hồi của Mật Tông, đều phong tỏa một phần ký ức chuyển giao lại cho đời tiếp theo, các Lạt Ma chuyển thế cũng dùng phương pháp tương tự, chỉ khác là bọn họ gửi gắm linh hồn, rồi dùng phương pháp “tiếp dẫn giáo hóa” và “quán chú thiên tâm” để hồi tưởng lại chú pháp bản phái”.

Lâm Cảnh Phong gật đầu, chẳng đưa ra ý kiến gì.

Trương Huy nói: “Rất khó tin, đúng không, truyền thuyết chính là như vậy. Nguyên nhân cái chết của đời Bặc Mẫu cuối cùng thì rắc rối lắm, thời đó cả tộc di dời đến nơi này, vị trí mà chúng ta đang đứng có tên là rừng Thiên Sơn”.

Đường Du: “Anh chính là một trong những hậu duệ của họ hả?”.

Lâm Cảnh Phong ra hiệu bảo: “Nghe anh ấy nói xong đã”.

Trương Huy lấy ngón tay thấm chút rượu, vẽ ra một cái bản đồ sơ lược trên bàn: “Chỗ này là địa hình rìa ngoài cùng của Thập Vạn Đại Sơn, cũng chính là đầu rồng của dãy núi, sau khi người Bặc di dời tới nơi này sinh sống mới phát hiện chỗ này không hề chào đón bọn họ”.

“Ba trăm năm trước, trong thôn làng cạnh núi, hằng ngày cứ tới nửa đêm đều có người chết, các thị trấn cổ rải rác quanh núi gồm Cẩm Bình, Khải Lý, Lôi Sơn, Dung Giang, Ba Sa, khoảng chừng mười mấy tộc sinh sống, mỗi tộc đều có trại của riêng mình, vậy mà bất kể tộc nào, cứ tới nửa đêm đều sẽ chết một người”.

“Đầu của người này bị bổ ra, móc sạch toàn bộ phần não bên trong, không ai biết con ác quỷ này ở đâu ra, nó tới không hình, đi không bóng…”.

Sắc mặt Hoắc Hổ đột nhiên trở nên xanh mét, run rẩy không ngừng.

“Anh biết à?”. Lâm Cảnh Phong nhíu mày hỏi: “Anh Hổ? Anh biết nó là cái gì à?”.

Phải mất một lúc lâu Hoắc Hổ mới bình thường trở lại: “Anh chỉ bị nghẹn cơm thôi…”.

Lâm Cảnh Phong: “…”.

Trương Huy nói tiếp: “Đại Tư Tế dẫn theo không tới năm trăm người trong tộc còn lại xin quẻ trước linh hồn tổ tiên, đáp án nhận được là chỗ đầu rồng của Thập Vạn Đại Sơn có một con sơn tà, cũng chính là con quỷ ẩn náu trong núi. Tình hình khi đó đã không còn có thể trốn đi đâu được nữa, thi thể của tổ tiên cũng chẳng có nơi nào để an táng, ngoại trừ trốn vào trong núi, thì họ không còn chỗ nào để đi. Cuối cùng, linh hồn của tổ tiên đã nói cho Đại Tư Tế biết một phương pháp trấn áp sơn tà, chính là bày trận vu cổ trong núi, có thể khiến tộc người trong ba nghìn dặm xung quanh được an cư lạc nghiệp”.

Lâm Cảnh Phong nói: “Sau khi người Bặc đến, nếu họ biết dùng cả vu thuật lẫn thả cổ, thì hẳn phải được người dân bản xứ hoan nghênh lắm mới phải chứ”.

Trương Huy không đồng tình: “Chút ít thôi, những thứ đó dù có thể giúp người, nhưng phần lớn khiến họ sợ hãi nhiều hơn. Cổ thuật ban đầu thực chất không hề hại người, suy cho cùng, trên thế gian này làm gì có nhiều kẻ khó ưa như vậy. Cũng chính vì nguyên nhân này mà hoàng đế người Hán mới kiêng dè tộc Bặc”.

Triển Hành lại giục giã: “Sau đó thì sao?”.

Trương Huy: “Sau đó, Bặc Mẫu nguyện lấy chính thân mình luyện thành cổ, cùng thi thể tổ tiên hợp thành trận địa quan tài, vào núi trấn áp tà linh. Cổ làm từ thân thể con người là thứ tổn hại đạo trời nhất, phải bị muôn sâu gặm cắn từ ngoài vào trong thân thể mới có thể hợp nhất với cổ, Bặc Mẫu chịu đủ mọi đau đớn, ngậm một viên định thi châu trong miệng vùng vẫy bảy bảy bốn mươi chín ngày mới chết, sau khi bà chết đi, Đại Tư Tế mới phát hiện, trên thi thể bà không giải phóng cổ Thần Quang, cũng có nghĩa là, chức Bặc Mẫu đến đời bà ấy thì kết thúc”.

Triển Hành nhớ tới viên định thi châu mà giá nào Trương Huy cũng không chịu giao ra, loáng thoáng đoán được chút nội tình.

Trương Huy lặng thinh rất lâu, rồi mới cất tiếng: “Không uống rượu cũng không sao, mọi người ăn cơm trước đi”.

Lâm Cảnh Phong cũng đoán được sơ sơ, bèn cầm chén nói: “Uống”.

Trương Huy gật đầu, mọi người cụng chén, Triển Hành vẫn còn nghĩ tới chuyện trước kia, mấy lần muốn mở miệng hỏi, nhưng không tiện cất lời, lát sau Trương Huy gắp thức ăn cho mọi người, rồi mới buông đũa xuống nói tiếp:

“Ba trăm năm trước, Đại Tư Tế đưa quan tài vào nơi sâu nhất trong núi, ngoài thân thể của nhân cổ Bặc Mẫu, còn có thêm bảy mươi hai chiếc quan tài của tổ tiên, bắt đầu bày trận pháp quan tài trấn áp tà linh, cuối cùng Đại Tư Tế và người ông ấy dẫn vào đều không trở ra nữa. Cổ Tinh Thần bay khỏi sơn cốc, chọn người kế thừa chức Đại Tư Tế đời tiếp theo”.

“Tộc nhân chờ đợi ba tháng ròng rã, lúc đi vào xem xét lần nữa thì phát hiện trận quan tài đã bày xong, xác của Đại Tư Tế chẳng biết đi đâu, còn thân thể của nhân cổ Bặc Mẫu thì nằm ngay giữa thung lũng, có lẽ Đại Tư Tế đã ngã xuống khe núi tan xương nát thịt rồi. Từ đó họ coi nơi ấy là khu vực cấm, nếu không phải Tư Tế thì bất cứ ai cũng không được tùy tiện ra vào”.

Triển Hành nhịn không được hỏi: “Vậy… Bặc Mẫu còn sống à? Không phải, ý tôi là, bà ta có còn giống như anh vừa nói, ở lại trong núi với hình hài nhân cổ không?”.

Trương Huy gật đầu: “Có định thi châu trong miệng, thi thể sẽ không phân hủy đâu”.

Lâm Cảnh Phong nhìn Trương Huy, không lên tiếng.

Triển Hành lại hỏi: “Vì sao định thi châu lại mất?”. Cậu nhớ lại lúc còn ở Liễu Châu, Trương Huy từng bảo vì anh ta đánh mất một vật rất quan trọng trong môn phái nên mới cãi nhau với anh trai.

Lâm Cảnh Phong nói: “Nếu anh không nói rõ chuyện này, tôi thực sự không giúp anh được”.

Trương Huy bỏ đũa xuống, có vẻ đã hạ quyết tâm, thành thật khai báo: “Nói rõ cũng chẳng sao hết. Tôi với anh tôi trước giờ đều ở Quý Dương học hành, sau khi tốt nghiệp, tôi quen một người bạn gái, rồi dẫn cô ấy về nhà”.

“Trong núi không có thứ gì chơi, lúc đó tôi vẫn còn ở chung với anh tôi, còn bây giờ thì anh ấy ở làng bên, vượt qua ngọn núi này còn phải đi một ngày đường nữa mới tới, anh em tôi không biết phải làm gì để cho cô ấy vui, thầm nghĩ chúng tôi là người vùng núi, nếu lấy được một nàng dâu có học thức cũng… là do cô ấy coi trọng chúng tôi, đúng không”.

Trên mặt Trương Huy đã ửng men say, Lâm Cảnh Phong nói: “Đúng là như vậy thật, nhưng anh cũng không nên nuông chiều cô ấy quá”. Nói xong anh cùng Trương Huy cụng chén, Trương Huy nhìn Triển Hành và Lâm Cảnh Phong, dường như có hơi kích động, thật lâu sau mới nói tiếp: “Đúng là tôi đã quá nuông chiều, cô ấy muốn chơi trò gì, tôi đều chiều theo cả, cô ấy nán lại nhà chúng tôi mấy tháng, trò gì chơi được đều đã chơi cả rồi, cô ấy đòi vào núi… chính là nơi tổ tiên bày trận quan tài đấy”.

Đường Du đập bàn, quát: “Chú Đỏ nói không sai! Đàn bà là mầm họa!”.

Triển Hành cảm thông vỗ vai Trương Huy: “Cũng không thể nói như vậy, mấu chốt là chưa gặp được người phù hợp thôi”.

Trương Huy gật đầu: “Cảm ơn, chú em Triển nhân cách không tồi, cậu có em gái không? Nếu có thì giới thiệu cho anh đi?”.

Triển Hành rùng mình ớn lạnh, nghĩ tới cảnh Lục Diêu vào núi, đừng có nói tới trận quan tài Bặc Mẫu gì đó, có khi ngay cả ác quỷ trong núi nó cũng bắt ra đùa bỡn một phen mới vừa lòng, bèn lập tức xua tay: “Không thể nào, em gái em… ờ, “cũng” không phải thứ tốt lành gì, sẽ giáng họa cho anh đấy”.

Trương Huy uống đến đỏ au hai mắt, cười tự giễu: “Lúc đó, tôi dẫn cô ấy đi, thầm nghĩ chỉ xem thôi, không động vào thứ gì hết thì sẽ không sao, thế là chúng tôi đi vào cấm địa”.

Triển Hành tiếp lời: “Kết quả thì phiền toái rồi?”.

Trương Huy: “Đúng vậy, sao cậu biết?”.

Triển Hành: “Trên phim và tiểu thuyết đều như vậy mà”.

Trương Huy: “…”.

Lâm Cảnh Phong: “Đừng có cười cợt trên nỗi đau của người khác, lại muốn ăn đòn à”.

Triển Hành cãi: “Em nhất định sẽ giúp Trương Huy, chỉ cần em giúp được”.

Trương Huy nói tiếp: “Lúc tôi tiễn cô ấy đi thì anh tôi đuổi ra đến nơi, bảo rằng định thi châu mất rồi, ác quỷ đã thoát ra ngoài, nghi ngờ cô ấy đụng vào thứ gì đó trong hang đá, tôi muốn bảo vệ cô ấy, nhưng không bảo vệ được, anh tôi bèn sai người lục soát người cô ấy, kết quả không có, đành phải thả cô ấy đi”.

Trương Huy chỉ kể bâng quơ vài câu, nhưng Triển Hành thoáng có thể cảm giác được xung đột lúc đó dữ dội cỡ nào, cùng với nỗi nhục nhã mà bạn gái Trương Huy phải chịu.

“Sau đó thì sao?”. Đường Du hỏi.

Trương Huy: “Sau đó vẫn tìm hoài nhưng không thấy viên châu, cô dâu cũng đòi chia tay, tôi tiễn cô ấy đến Khải Lý, cô ấy bỏ đi, một năm sau cô ấy bảo chuẩn bị sang Úc, từ đó không còn liên lạc gì nữa”.

Nhưng chuyện Lâm Cảnh Phong quan tâm lại là vấn đề khác: “Ác quỷ có thoát ra không?”.

Trương Huy bảo: “Tôi không biết, nhưng trong mấy năm nay, tôi nghe nói đã xảy ra khá nhiều án mạng, có lẽ đã thoát ra rồi. Anh tôi rời nhà ra ngoài trộm mồ quật mả, nhưng không tìm được viên châu để thay thế. Tôi ở lại đây, trong lòng càng nghĩ càng bức bối, kể từ khi cãi nhau một trận với anh ấy hơn hai năm trước, chúng tôi không còn nói chuyện với nhau nữa, thà rằng cũng ra ngoài tìm cho xong, may mà giờ tìm thấy rồi, vài ngày nữa tôi sẽ lên núi”.

Lâm Cảnh Phong trầm ngâm không nói gì, Triển Hành ngạc nhiên hỏi: “Vậy anh còn bảo bọn em tới giúp cái gì? Đã tìm được rồi thì thả trở về là xong thôi mà?”.

“Chưa chắc”. Lâm Cảnh Phong ngắt lời: “Nếu viên châu đầu tiên không liên quan gì tới cô gái kia, vậy ai đã lấy nó đi?”.

Trương Huy gật đầu nói: “Điều tôi sợ chính là việc này, lỡ như vẫn còn rắc rối khác thì khó mà nói trước được, vẫn nên mời người tới giúp, tôi thực sự không muốn cãi nhau với anh tôi. Về phần thù lao… các anh em, chỗ tôi chẳng có bao nhiêu tiền, chỉ có ít gia sản…”. Nói xong quay người đi lục đồ.

“Ấy ấy”. Triển Hành vội nói: “Đừng như vậy mà, anh mời bọn em tới chơi, sao có thể đòi anh tiền thù lao cho được?”.

Lâm Cảnh Phong: “Trước hết anh hãy trả lời tôi một câu hỏi, Trương Huy, nếu nơi đó đã là cấm địa, không phải Tư Tế thì không thể vào, vậy sao anh vào được?”.

Trương Huy lôi từ dưới gầm giường ra một cái hòm, động tác hơi khựng lại.

“Tôi chính là Tư Tế”. Trương Huy nói: “Anh tôi là Đại Tư Tế, tôi là Thiếu Tư Tế, Đại Tư Tế chịu tránh nhiệm về chuyện sống chết của người trong tộc, Thiếu Tư Tế lo việc khấn vái linh hồn tổ tiên”.

Triển Hành và Đường Du đều trợn tròn mắt, Triển Hành lập tức cảm thấy hình tượng Trương Huy trở nên cao lớn nhã nhặn tôn quý không ít, từ một cái kéo gắp than đen nhẻm thăng cấp lên thành cây quyền trượng kim cương hoàng thất lấp lánh ánh vàng, từ một con chó quê Trung Hoa tiến hóa thành chó săn Đức, bèn kích động nói: “Thiếu Tư Tế, không cần thù lao đâu, chúng ta bắt tay đi! Anh đúng là hoàng tử thật! Cả đời em còn chưa có diễm phúc bắt tay với người từ cấp bá tước trở lên đâu đấy!”.

Trương Huy xấu hổ cực kỳ, khoát tay nói: “Vương tử gì chứ, chẳng qua chỉ là thằng chột làm vua xứ mù thôi”.

Trương Huy lấy một thanh đao, một chiếc mặt nạ nước Thục cổ, còn cả một chuỗi trân châu lẻ tẻ, cùng vài thỏi vàng đặt lên bàn.

“Đây là chút đồ mẹ tôi để lại”. Trương Huy nói: “Nếu mọi người bằng lòng, có thể giúp tôi điều tra rõ sự việc là tốt nhất, còn nếu không được, vậy chúng ta lên núi, trả định thi châu về thi thể Bặc Mẫu, rồi ở bên ngoài chờ khoảng chục ngày nửa tháng, sau một kỳ trăng tròn khuyết nếu không xảy ra bất cứ chuyện gì khác thường, thì chuyện này coi như xong, mọi người xem có được không?”.

“Các anh em, tôi chẳng có gì nhiều, mọi người muốn thứ gì trong mấy món đồ chơi trong hòm này thì cứ tùy ý chọn, lấy hết cả đi, cũng chẳng đáng mấy đồng, chút tấm lòng từ người anh em này thôi”.

Đồ trong hòm đó trị giá ít nhất cũng hơn triệu, bằng cả mấy lần xuống đấu của Lâm Cảnh Phong.

Đường Du thờ ơ liếc mắt một cái, nói: “Không thích thứ gì, khỏi cần, tôi sẽ đi, dù sao cũng ở nhà anh chơi lâu như vậy rồi”.

Dù Triển Hành rất thích đồ cổ, nhưng không đành lòng lấy đồ của Trương Huy, đoán chừng đây là tài sản mẹ anh ta để lại cho anh ta sau này kết hôn, bèn xua tay ý bảo không cần.

Hoắc Hổ lấy một viên trân châu ra cắn thử, chẳng sứt mẻ gì, thế là cũng chẳng thèm nữa.

Lâm Cảnh Phong: “Không ai cần à, vậy cho tôi hết đi”.

Triển Hành còn muốn nói gì đó, nhưng Trương Huy đã hào phóng vô cùng: “Được, khi nào mọi người đi tôi sẽ phái người vận chuyển theo”.

Đánh chén xong một bữa no nê, Trương Huy đứng dậy nói: “Đi cả ngày trời, mọi người cũng mệt cả rồi, nghỉ ngơi trước cái đã, vài ngày nữa sốc lại tinh thần rồi chúng ta sẽ tới chỗ anh trai tôi, nếu cậu Lâm quen với anh trai tôi thì dễ nói hơn nhiều rồi, không cần động tay động chân nữa”.

Lâm Cảnh Phong thầm nghĩ hai anh em nhà này xem ra đã bất hòa như nước với lửa rồi, bằng không Trương Huy đâu đến nỗi phải dọn đi xa đến vậy, bèn gật đầu: “Được, tôi chịu trách nhiệm dẹp yên anh trai anh”.

Triển Hành nói: “Anh Trương Soái nhân cách tốt mà, em sẽ nói chuyện với anh ấy”.

Lâm Cảnh Phong: “Đừng có ngây ngô như vậy, đây là chuyện nhà người ta”.

Trương Huy tiễn mọi người ra ngoài, mỗi người ở trong một gian nhà sàn, trong nhà đã chuẩn bị sẵn chăn gối và nước nóng, gió núi ban đêm xuyên qua cánh rừng hiu hiu len tới, trong nhà vẫn còn một chậu lửa bập bùng xua đi cái rét tháng ba, thành thử không khí vô cùng ấm áp.

Đường Du ngồi bên ngoài nhà, đặt máy tính xách tay lên đầu gối, bên cạnh là máy phát điện bằng xăng cầm tay cùng động cơ xe tải sáu xi-lanh do Trương Huy mua riêng từ trong thị trấn về, sau khi được Đường Du cải tiến nó đã hoạt động hiệu quả vừa tiết kiệm năng lượng vừa bảo vệ môi trường, đầu tiên dùng xăng đốt để phát điện cho quá trình phân giải nước giếng, tạo thành khí Hiđrô và Ôxi, thêm khí Hiđrô vào nữa, sau khi nén chất dẫn cháy sẽ khiến máy phát điện sáu xi-lanh vận hành mạnh mẽ, cuộn cảm từ quay với tốc độ cao, đạt đến hiệu quả siêu việt cung cấp điện đủ chiếu sáng cho cả thôn.

Đường Du đang sạc điện cho máy tính xách tay.

Hoắc Hổ nằm giang hai tay hai chân trên nóc nhà tắm ánh sao.

Trương Huy đứng ngây người giữa khoảng đất trống.

Trong đêm đen tĩnh lặng, từ trong phòng của Lâm Cảnh Phong và Triển Hành truyền ra tiếng tranh cãi ồn ào làm mọi người sợ hết hồn, Hoắc Hổ lập tức nhảy xuống, muốn đi lên lầu, nhưng lại bị Trương Huy kéo lại, ra hiệu đừng đi.

Loáng thoáng truyền đến tiếng “em không hiểu” đè thật thấp âm lượng của Lâm Cảnh Phong, rồi giọng Triển Hành từ từ nhỏ lại, thêm một lúc nữa thì Lâm Cảnh Phong ra ngoài, trở tay đập cửa, đứng cạnh lan can hút thuốc, Đường Du và Hoắc Hổ ai nấy tự dọn dẹp đồ đạc trở về phòng mình.

Trương Huy nói: “Người anh em, như vậy không được, đừng có cãi nhau”.

Lâm Cảnh Phong xua tay, thở dài một hơi.


Vui lòng click vào dấu mũi tên để lùi hoặc sang chương kế tiếp