LINH HỒN NỔI LOẠN

Chương 36

trước
tiếp

LINH HN NI LON

Tác gi: Phi Thiên D Tường

Người dch: Tàng Thư Quán

Hoắc Hổ thật ra rất sành ăn.

Sáu gói thịt bò khô gồm có vị cay, ngũ hương, hải sản, vị nướng, vị tự nhiên và vị mật ong, kết hợp mỗi hai vị với nhau, lột ra xong trộn lại nhai chung, tạo thành mùi vị rất độc đáo, có lúc ăn chung ba vị, thậm chí sáu vị một lúc hết sức đa dạng, có khi còn bóc hết giấy gói các viên thịt bò khô ra, rồi bỏ chung trong một cái túi bảo quản đồ ăn để tiện lấy ra nhấm nháp bất cứ lúc nào.

Lại còn nhúng thịt bò khô với sữa tươi…

Lâm Cảnh Phong nhịn hết nổi rồi.

“Cất quà vặt của anh vào đi, ông anh”. Lâm Cảnh Phong lạnh lùng ra mặt: “Giờ là lúc ăn cơm”.

Hoắc Hổ vội cất quà vặt đi.

Ba người xuống xe tại Liễu Châu, Lâm Cảnh Phong quen đường thuộc lối cho thấy đã từng đi qua nơi này rồi, anh dẫn Hoắc Hổ và Triển Hành tới bờ sông Liễu, lên một chiếc thuyền chài.

Đang độ rét đậm, nhưng khu vực lưỡng Quảng không lạnh chút nào, ánh nắng ấm áp, gió nhẹ hiu hiu trên mặt sông, so với Lhasa quả là một trời một vực.

Trong quán ăn trên thuyền có mở một giai điệu đàn tranh, Hoắc Hổ cao to vạm vỡ, khoanh tay bò ra bàn phơi nắng ngủ gật, Triển Hành cầm thực đơn, nói: “Em đâu có phải mèo”.

Lâm Cảnh Phong gọi vài món hải sản tươi, mỉa mai: “Mẹ kiếp em chính là con mèo quý tộc thuần chủng, ông đây kiếm được bao nhiêu tiền cũng không đủ mua đồ ăn cho em”.

Triển Hành cười nói: “Em chỉ cần ăn chút bún ốc Liễu Châu là được rồi”.

Lâm Cảnh Phong gọi món xong, lặng thinh ngồi đó, Triển Hành lại dán người lên, hỏi: “Vợ ơi, vợ đang nghĩ gì thế?”.

Lâm Cảnh Phong: “Gọi chồng, anh đang nghĩ tới Tiểu Song”.

Triển Hành: “Ờ”.

Triển Hành im lặng một lúc lâu, Lâm Cảnh Phong mới hờ hững nói: “Tiểu Song là người Liễu Châu”.

Triển Hành không tiếp lời, Lâm Cảnh Phong nhìn ra ngoài lan can, bảo: “Em có biết đó là nơi nào không?”.

Ven bờ sông Liễu có rất nhiều nhà dân, trên nhiều băng đá ngoài công viên có vô số người ngồi.

Triển Hành nghiêng đầu nhìn, thấy một thiếu niên ngồi trên ghế đá, sau đó có một người trung niên đi tới, ngồi xuống cạnh cậu ta nói vài câu.

Triển Hành chẳng hiểu mô tê gì, Lâm Cảnh Phong nói: “Đây là nơi đồng chí tập hợp, những người đồng tính độc thân sẽ tới nơi này tìm bạn, Tiểu Song chính là người Liễu Châu”.

Triển Hành im lặng gật đầu, gần như tưởng tượng ra được cảnh Lâm Cảnh Phong và Vương Song sóng vai ngồi cạnh nhau thật lâu trước đây. Còn tình hình hiện tại là: trên ghế đá, người trung niên nọ đưa tay khoác vai cậu thiếu niên.

Thiếu niên đang uống co-ca phun luôn ra ngoài.

Lâm Cảnh Phong: “Thằng nhóc kia trông không giống người bản địa cho lắm”.

Thiếu niên bên bờ sông ném ba lô ra sau lưng, đứng dậy muốn đi, người trung niên đuổi theo, chốc lát sau, thiếu niên rút một khẩu súng lấp lánh ánh bạc từ bên hông ra, chính là khẩu Chim Ưng Sa Mạc mà Lâm Cảnh Phong hay dùng.

Đường Du chĩa súng vào trán người nọ.

Đường Du thật sự tức muốn vỡ phổi luôn, từ khi rời doanh trại ngầm của Hoa Nam Kiếm ra ngoài tới nay toàn gặp chuyện xúi quẩy, thẻ căn cước không mang, còn chẳng hiểu tiếng Triều Châu nữa.

Rời khỏi khu vực Triều Châu thì ngôn ngữ mới khá hơn chút, Đường Du lên xe lửa muốn đi dạo loanh quanh, mục tiêu đầu tiên chính là Liễu Châu, sau khi xuống xe cậu vừa tìm đại một nơi nào đó ngồi nghỉ thì lại bị đùa bỡn.

Đường Du cất súng đi, người trung niên nọ nghẹn họng trợn mắt ngất xỉu, Đường Du đi dọc bờ sông một lúc, thầm nghĩ trước tiên phải tìm nơi nào đó ngồi cái đã, thế là lại quay đi.

Đường Du mặc một chiếc áo sơ mi trắng, bên ngoài có áo len đen, cổ áo sơ mi được giặt trắng phau, bẻ ra ngoài đúng hình chữ V, tay áo xắn cao, đầu bù tóc rối, trắng trẻo thanh thoát, mặc quần tây, đi giày da, lưng đeo ba lô laptop, nhìn bề ngoài giống một học sinh tầm tuổi Triển Hành.

Triển Hành nói: “Cậu ta dùng súng giống anh kìa, không biết làm nghề gì nhỉ?”.

Lâm Cảnh Phong làm động tác “suỵt”: “Nói nhỏ thôi, anh không rõ, nhìn không giống người trong nghề, đừng quan tâm nữa, chúng ta ăn xong rồi đi”.

Lâm Cảnh Phong tính tiền xong, lúc đi qua cửa tiệm rượu thì thoáng thấy sau bức rèm châu có một người phụ nữ mặc sườn xám màu chàm đang thản nhiên đứng xem sổ sách.

Lâm Cảnh Phong dừng bước, người phụ nữ nở nụ cười quyến rũ với anh, tay làm động tác “cút xéo”, Lâm Cảnh Phong cau mày, gật đầu, xoay người đi khỏi.

Lâm Cảnh Phong miên man suy nghĩ, chị ta lại tới đây làm gì? Không phải lúc trước chị ta đã được đưa vào bệnh viện Lhasa rồi sao? Với năng lực của chị ta, hẳn không đến nỗi bị bắt lại mới đúng.

Lâm Cảnh Phong cầm danh thiếp của Thanh Vân Trai tìm tới địa điểm mà Hành Vân nói, đó là một căn nhà lớn lụp xụp thuộc khu phố cổ ở Liễu Châu, trong nhà chính không có người, mạng nhện giăng khắp nơi.

Ba rưỡi chiều.

Lâm Cảnh Phong nhìn đồng hồ, vẫn chưa đến giờ, bèn ngồi xuống bảo: “Hai người cứ đi nghỉ trưa, tôi ở đây chờ người đã”.

Triển Hành căn bản không biết Lâm Cảnh Phong muốn làm gì, thế là cùng Hoắc Hổ vào trong sân chờ, đã gần bốn giờ, mấy người lần lượt vác ba lô đi vào trong sảnh, ai nấy đều bụi bặm mệt mỏi, có già có trẻ, đứng đầy cả phòng, lại chẳng nói chuyện gì, Lâm Cảnh Phong ngồi trên một chiếc ghế gỗ xập xệ quan sát từng người một.

Đây đều là những tên trộm mộ mà Hành Vân tìm tới giúp sức cho anh.

“Ha ha ha…”.

Triển Hành cầm cái gương hứng ánh nắng mặt trời trong sân rồi phản chiếu điểm sáng lên tường, Hoắc Hổ chạy qua chạy lại bắt đốm sáng đó.

Lâm Cảnh Phong: “…”

“Hai người không thể làm chuyện gì có ý nghĩa hơn à?”.

Bốn giờ, Lâm Cảnh Phong điểm quân số: “Chỉ có tám người thôi sao? Tôi tự giới thiệu một chút, tôi là Lâm Tam”.

Trong gian nhà chính tranh sáng tranh tối, người đứng đầy cả phòng nhưng không một ai lên tiếng.

Một người trong số đó nhìn trái nhìn phải, tiếp lời: “Đã từng nghe nói, Tam gia có gì dặn dò cứ việc nói thẳng”.

Lâm Cảnh Phong đáp: “Vẫn còn hai người, thôi không đợi nữa. Anh tên gì?”.

Người nọ đáp: “Tống Thần Vũ”.

Lâm Cảnh Phong: “Được rồi, phiền anh làm phụ tá, đưa danh thiếp cho tôi xem”.

Tống Thần Vũ lấy danh thiếp của mọi người đưa cho Lâm Cảnh Phong, gồm tất cả tám tấm, Lâm Cảnh Phong nói: “Lần này chúng ta phải vào trong núi, bàn thù lao trước, hôm nay là ngày bao nhiêu?”.

Tống Thần Vũ: “Mười chín tháng chạp”.

Lâm Cảnh Phong nhướn mày: “Từ hôm nay cho tới ngày hai mươi chín là mười ngày, tiền công mỗi ngày là năm trăm một người, tới hai mươi chín làm xong chuyện, rời khỏi núi Gà Gáy sẽ tăng thêm sáu nghìn nữa, mọi người về nhà đón Tết”.

“Làm chuyện gì, nói rõ chút, không đi Gà Gáy đâu”. Cuối cùng cũng có người hỏi.

Lâm Cảnh Phong ngồi trên ghế, lấy điếu thuốc ra ngậm vào miệng, Tống Thần Vũ đi lên quẹt lửa cho anh, Lâm Cảnh Phong tỏ ý cảm ơn rồi giải thích: “Núi Gà có xưởng chế tạo vũ khí của Bạch Sùng Hi, lúc quân phiệt hỗn chiến, Lý Tông Nhân cũng có một căn cứ ngay cạnh”.

Triển Hành ở bên ngoài không giỡn nữa mà cố nghe lén.

Có người lên tiếng: “Tôi tên là Hồ Dương”.

Lâm Cảnh Phong gật đầu: “Bốn năm trước chẳng phải Liễu Châu xảy ra một vụ án sao? Một đám người đánh nhau, có cả người chết, cục cảnh sát đã phát lệnh truy nã, tóm được mấy thằng nhóc bỏ trốn kia, sau đó yên ắng dần, bẵng đi mấy năm, có người tìm thấy một trong số chúng tại hang trú ẩn ở núi Gà”.

Vẻ mặt Hồ Dương đột nhiên méo mó.

Lâm Cảnh Phong nói: “Ai có câu hỏi gì phiền gác lại sau, trong hang trú ẩn ngoại trừ một xác chết thì còn có một cánh cửa sắt, trước cửa có mùi xác chết, đám người lần trước vào không dám báo cảnh sát, cũng không dám… sao thế? Có chuyện gì?”.

Có người trong phòng lập tức nói: “Tam gia, thật ngại quá, việc này tôi không nhận đâu”.

Lâm Cảnh Phong còn chưa hỏi xong, mọi người đã rối rít xua tay, xoay người đi thẳng, trong gian nhà thoắt cái đã vơi đi một nửa.

Lâm Cảnh Phong: “…”

Tống Thần Vũ nhìn Lâm Cảnh Phong rồi lại nhìn Hồ Dương, Lâm Cảnh Phong hỏi: “Có chuyện gì? Tin tức tôi nhận được từ Thanh Vân Trai, còn chuyện gì chưa nói rõ nữa?”.

Tống Thần Vũ kiếm một chiếc ghế mục ngồi xuống: “Gần đây Liễu Châu có ma, Tam gia không biết à?”.

Lâm Cảnh Phong hoàn toàn không biết phải nói sao: “Có chuyện này ư?”.

Tống Thần Vũ nói: “Ai cũng bảo dưới đất có quỷ gây hạn, từ tháng mười năm nay trở đi trời chưa từng đổ một trận mưa nào, có người bảo do quỷ gây hạn quá nhiều biến thành yêu tinh, cũng có người bảo là do oan hồn không tan…”.

Lâm Cảnh Phong giơ tay nói: “Đợi đã, chuyện này… hai anh đều là người bản địa à?”.

Một người tỏ ý không phải.

Hồ Dương nói: “Tôi… tôi là người bản địa”.

Lâm Cảnh Phong còn chưa kịp hỏi han, Tống Thần Vũ đã nói: “Mấy hôm trước, có một ông thầy bói đến đây, bảo rằng năm ngoái vua hạn xuất hành, chắc chắn không an lành, vua hạn ngàn năm vừa tỉnh dậy, chỗ nó ngủ… chính là núi Gà Gáy. Hay là, Tam gia đợi mùng năm Tết hãy tới?”.

Lâm Cảnh Phong khoát tay, Triển Hành hỏi: “Vua hạn là cái gì?”.

Lâm Cảnh Phong nhìn Triển Hành: “Em cũng có lúc không biết à?”.

Triển Hành: “Mấy thứ này em thực sự không hiểu”.

Lâm Cảnh Phong giải thích: “Vua hạn chính là cương thi, truyền thuyết kể rằng cương thi quấy phá sẽ làm mặt đất hạn hán, em có biết thủy tổ của cương thi không?”.

Triển Hành nhớ ra: “Chính là Hạn Bạt?”.

Lâm Cảnh Phong gật đầu: “Có điều thứ này cũng chẳng có cơ sở gì, chắc chỉ dọa người là chính thôi”.

Lâm Cảnh Phong lại ngẫm nghĩ một lúc mới nói: “Như vậy đi, ba người các anh chỉ cần ở trên mặt đất chuyển đồ, canh gác, còn dò đường, đào hang để ba chúng tôi làm. Mấy người kia đã bỏ đi rồi, vậy sẽ tăng gấp đôi cho các anh, mỗi ngày một nghìn, xong việc thêm mười nghìn nữa, thế có được không?”.

Tống Vũ Thần bình thản đáp: “Được, nghe hết Tam gia”.

Lâm Cảnh Phong lại hỏi: “Vị này xưng hô thế nào?”.

Người cuối cùng còn ở lại đáp: “Tôi tên Trương Huy”.

Lâm Cảnh Phong gật đầu nói: “Còn phải đi thuê xe… đúng rồi, anh Tống và ông anh tên… Hồ Dương này, đã là người bản địa, tại sao không giống bọn họ? Phải nói cho rõ ràng trước, có lẽ trong lòng mọi người đều hiểu rõ chuyện này rồi, nếu giờ không muốn làm thì cứ việc đi bất cứ lúc nào”.

Tống Vũ Thần đứng dậy đáp: “Làm, để tôi đi thuê xe, mẹ tôi ngã bệnh, không trả nổi tiền thuốc men, đang nằm trong bệnh viện nhân dân Liễu Châu, tôi không thể không làm”.

Lâm Cảnh Phong gật điều hiểu ý, Triển Hành nói: “Ồ đợi đã, bệnh gì? Tôi có…”.

Lâm Cảnh Phong nhướn mày, Triển Hành đành phải ngậm miệng.

Lâm Cảnh Phong: “Hay thế này đi, tôi thanh toán cho anh một nửa trước, làm tiền đặt cọc?”. Nói xong anh lấy tiền ra đếm.

Tống Thần Vũ như trút được gánh nặng: “Cảm ơn Tam gia, sau này nước sôi lửa bỏng đều nghe anh sai khiến. Trẻ con mất mùa hè cụ già đi mùa đông, mẹ tôi sắp không chống đỡ nổi…”.

Lâm Cảnh Phong: “Dừng lại, Tết nhất đến nơi rồi, chớ có nói lời xúi quẩy”.

Lâm Cảnh Phong đưa cho Tống Thần Vũ mười nghìn, Tống Thần Vũ nhận tiền, cởi ba lô để trong gian nhà chính rồi chạy vọt ra ngoài sân.

Lâm Cảnh Phong hỏi: “Anh thì sao? Cũng muốn ứng trước chứ?”.

Hồ Dương nhìn Lâm Cảnh Phong: “Không cần, tôi xuống chung với các anh, trong đám nhóc bỏ trốn, có một đứa tên Hồ Bách, nó là em trai tôi, năm đó nó mới lên mười sáu”.

Lâm Cảnh Phong: “…”

Hồ Dương: “Tôi đi thuê xe cùng anh Tống, tôi rành Liễu Châu lắm”.

Lâm Cảnh Phong thở dài: “Còn anh? Trương Huy”.

Trương Huy: “Tôi cũng không có việc gì, vợ chê tôi nghèo nên đá tôi rồi, cuối cùng vẫn phải quay về nghề chính”.

Lâm Cảnh Phong nhảy khỏi ghế, nói: “Vậy chuẩn bị cho kỹ, đêm nay xuất phát, trang bị, công cụ tự lo, chúc hợp tác vui vẻ”.

Trương Huy gật đầu, mọi người chia nhau đi chỉnh đốn hành trang.

Trong gian chính chỉ còn lại ba người họ, lòng Triển Hành rối như tơ vò: “Hồ Dương nói vậy là có ý gì?”.

Lâm Cảnh Phong đáp: “Em trai anh ta phạm tội, anh ta sợ em trốn trong hang trú ẩn không rõ sống chết…”.

Triển Hành hít sâu vào một hơi, muốn nói gì đó nhưng lại chẳng thốt ra lời được, mãi một lúc lâu sau cậu mới hỏi: “Trẻ con mất mùa hè cụ già đi mùa đông nghĩa là sao?”.

Lâm Cảnh Phong đeo kính lên: “Câu đó nghĩa là, nếu trời quá nóng, vào hè trẻ con dễ đổ bệnh, bởi vì tã lót giữ nhiệt mà, cởi hết ra sẽ bị lạnh; còn người già thì dễ ngã bệnh vào mùa đông”.

Triển Hành im lặng hồi lâu, thổn thức được một câu: “Sống rõ là khổ”.

Lâm Cảnh Phong hờ hững nói: “Ai mà chẳng khổ”.

Triển Hành ngồi xổm trong sân, ánh trời chiều như máu nhuốm vàng khắp chốn, cậu lấy điện thoại ra gọi cho cha ở bờ bên kia đại dương xa xôi.

“Oáp… giề?”. Triển Dương bắt máy bằng cái giọng ngái ngủ.

“Ây, con đây”. Triển Hành quên mất lúc này bên New York là năm giờ sáng, cậu vô thức muốn cúp điện thoại.

Triển Dương: “Hết tiền tiêu rồi à?”.

Triển Hành: “Không… không phải, Lục Thiếu Dung có đó không ạ?”.

Triển Dương nhẹ nhàng ngồi dậy, đi ra ngoài phòng ngủ: “Chuyện gì? Ba hai con đang ngủ, bị cảm rồi”.

Triển Hành: “Lục Diêu thì sao ạ?”.

Triển Dương: “Rốt cuộc là chuyện gì? Có gì không thể nói cho tao nghe hả? Tao mới là chủ gia đình! Mấy người lại muốn giấu tao lén lút bày trò gì đúng không? Hử!”.

Triển Dương vừa to giọng, ngay cả Lục Diêu ngủ trên lầu ba cũng bị đánh thức.

“Ngày mai con phải biểu diễn múa ba lê đó!”. Lục Diêu tức giận đạp cửa phòng.

Lục Thiếu Dung mặc áo ngủ ra ngoài, Triển Dương vội nhỏ giọng đẩy Lục Thiếu Dung trở vào phòng: “Nói mau”.

Triển Hành ngẫm nghĩ, nói tiếp: “Tiểu Mao thì sao?”.

Nửa đêm gà gáy Triển Dương bị thằng con gọi điện đánh thức, thế nhưng nó chỉ hỏi đến một con chó, thật muốn lao về Trung Quốc bóp chết thằng này.

“Thằng con kia, ngày mai tao còn phải đi làm”. Triển Dương điên lên: “Tao kiếm tiền nuôi cả một gia đình, chu cấp cho mày bỏ nhà qua Trung Quốc tiêu xài hoang phí, trả tiền viện phí cho bạn mày, mày có chuyện gì thì xin thương xót, nói cho xong một lần luôn đi…”.

Triển Hành: “Xin ba đấy! Tiền viện phí là do cậu hai bỏ ra mà!”.

Triển Dương: “Tao mới phải xin mày đấy! Thằng cha đó chỉ biết vẽ con heo thôi, còn thẻ vẫn do ông đây quẹt! Người nhà họ Triển không cần xài một cắt nào của lão ấy, một mình ông đây cũng nuôi nổi mấy người kể cả đám bạn bè lêu lổng của mày, còn nữa à! Thêm nữa đi! Thêm nữa đi!”.

Triển Hành ngắt điện thoại.

Lục Thiếu Dung ngáp dài: “Điện thoại của Tiểu Tiện à?”.

Triển Dương ném điện thoại: “Cứ như thằng thần kinh, nửa đêm nửa hôm gọi điện về hỏi Tiểu Mao đã ngủ chưa”.

Lục Thiếu Dung: “Con nó nhớ nhà đấy, tìm cơ hội thích hợp nói chuyện tử tế kêu nó về đi”.

Giờ Triển Dương mới hiểu ra, bèn lấy điện thoại muốn gọi lại, nhưng Lục Thiếu Dung lại quay sang ôm lấy Triển Dương, bảo: “Thôi, tạm thời cứ mặc kệ nó, nó hiểu ra sẽ gọi lại thôi”.

Hoắc Hổ nhìn thấy Triển Hành đỏ au vành mắt, ngồi một mình một xó, thầm nghĩ chắc lại cãi nhau với ba mẹ rồi!

Hoắc Hổ không biết an ủi người khác, nhưng lại có lòng nhiệt tình theo bản năng, chưa kể Triển Hành buồn bã chính là chuyện cực lớn, thế là bèn đến ngồi bên cạnh Triển Hành, đắn đo suy nghĩ hồi lâu, cuối cùng cũng phun ra được một câu.

“Triển Hành, chúng ta đi tiểu đi”.

Núi Gà Gáy, đêm xuống, mây đen che trăng, không gian tĩnh lặng.

Lâm Cảnh Phong điều khiển một chiếc xe Jeep dừng bánh ở chân núi, đây là nơi hẻo lánh nhất ở ngoại ô phía Tây thành phố Liễu Châu, cũng là phía chân núi hoang vu nhất của núi Gà Gáy, không có làng mạc, cũng chẳng có trạm gác, có một con đường bỏ hoang dẫn lên trên núi, đêm đen như mực đậm phủ kín cả một khu vực đồi núi.

Lâm Cảnh Phong: “Giờ phải đi tiếp thế nào?”.

Tống Thần Vũ: “Tắt đèn xe để tránh phiền phức, bên kia có một con đường nhỏ, men theo đường đó mà đi lên là có thể tới được nhà máy bỏ hoang thời Dân Quốc”.

Không cả nghe được tiếng côn trùng chim chóc, Triển Hành loáng thoáng cảm giác mình đã quay ngược thời gian trở về thời Dân Quốc hơn trăm năm trước, ô tô lái dọc theo con đường đá nhấp nhô gập ghềnh, đèn xe đã bị Lâm Cảnh Phong tắt đi.

Tống Thần Vũ nói: “Tam gia, để tôi lái”.

Trước khi ánh sáng tắt ngúm, Triển Hành nhìn thấy bên đường mọc đầy cỏ dại, chứng tỏ rất lâu rồi không có ai đi qua.

Phong cảnh hai bên đường đen kịt, mây đen tan dần, để vầng trăng lưỡi liềm sau kẽ mây hắt thứ ánh sáng mịt mù xuống.

Bức tường hai bên đường đen thui, đọng lại vết nước mưa và nấm mốc bị năm tháng mài mòn, có vài bức tường còn dán mấy tấm bùa lớn, trên mấy cánh cửa thậm chí còn dán giấy niêm phong.

Một người phụ nữ đứng sau cửa, trên tay ôm một đứa trẻ sơ sinh, tóc tai bù xù nhìn Triển Hành.

Triển Hành giật nảy mình: “Có người!”.

Hoắc Hổ ban ngày hay ngủ gật, nhưng ban đêm thì lại rất tỉnh táo, vội hỏi: “Chỗ nào?”.

Triển Hành chỉ ra ngoài cửa sổ, lúc Hoắc Hổ quay đầu nhìn thì mây đen lại che lấp mặt trăng, Tống Thần Vũ dừng xe, chẳng thấy gì bên ngoài hết.

“Em lại lên cơn điên à”. Lâm Cảnh Phong nói.

Triển Hành vội vã nhìn lại, nhưng chẳng thấy gì, nửa tin nửa ngờ gật đầu, trong tâm trí toàn là hình ảnh người phụ nữ mặt mày trắng bệch kia.

Hồ Dương chen miệng: “Thời Dân Quốc chỗ này là ký túc xá của nhà xưởng, sau khi Bạch Sùng Hi đi rồi thì bị bỏ hoang mấy chục năm, ngày ấy ông nội tôi lái xe qua nhà xưởng lần nữa vẫn thấy thiết bị còn hoạt động. Giờ con đường này đã hai mươi năm không ai qua lại rồi. Liễu Châu phát triển đô thị tập trung hết về phía Đông, gần Quế Lâm, còn ngoại ô phía Tây chẳng biết vì sao trước giờ không người ở, tất cả làng mạc đều di tản cả rồi”.

Trong vòng mười dặm không một bóng người, ngay cả trạm gác cũng không có, Lâm Cảnh Phong ấn mở cửa sổ xe, nhoài nửa người ra ngoài nhìn ngó.

Ở nơi cách đó xa xôi muôn trùng, thành phố Liễu Châu ánh đèn thưa thớt, nơi này đã cách nội thành Liễu Châu mấy chục cây số, sắp sửa tới khu vực tự trị của dân tộc cổ luôn rồi.

Vậy cũng tốt, Lâm Cảnh Phong thầm nghĩ, giữa nơi núi đồi hoang vắng, cho dù có gây ra chuyện gì cũng không đến nỗi đánh động đến cảnh sát.

Lâm Cảnh Phong ngồi về chỗ cũ: “Tại sao sau đó công xưởng lại bị đóng cửa?”.

Hồ Dương nói: “Có ma”.

Lâm Cảnh Phong: “…”

Hồ Dương: “Nghe bảo ban ngày không sao, nhưng đêm xuống các thiết bị trong nhà máy sẽ tự hoạt động, công nhân trực đêm thường gặp tai nạn, chết hết mấy nhóm rồi, mấy ông ở phòng thường trực đều phát điên, cuối cùng nhà nước mới di dời vị trí nhà máy qua khu đất mới phía Đông, nơi này bị bỏ hoang từ đó”.


Vui lòng click vào dấu mũi tên để lùi hoặc sang chương kế tiếp