LINH HỒN NỔI LOẠN

Chương 24

trước
tiếp

LINH HN NI LON

Tác gi: Phi Thiên D Tường

Người dch: Tàng Thư Quán

Triển Hành: “Tiểu sư phụ, dạo này anh có khỏe không?”.

Lâm Cảnh Phong: “Sao em lại tới đây?”.

Triển Hành: “Anh trả lời em một câu, em trả lời anh một câu”.

Từ đầu tới cuối Lâm Cảnh Phong vẫn không tháo kính xuống, hồi lâu mới nói: “Người đi cùng em là ai? Vệ sĩ do cậu hai em mời đến à?”.

Triển Hành hỏi: “Anh tới nơi này để làm gì?”.

Bọn họ mạnh ai nấy hỏi, đều không muốn trả lời người kia.

Cuối cùng, Lâm Cảnh Phong thở dài: “Anh tới thực hiện nhiệm vụ sư phụ giao cho, còn em, vì sao không về nhà? Lúc trước anh đã nói rõ rồi mà”.

Triển Hành: “Em không muốn về, ở lại Trung Quốc biết đâu còn có thể chạm mặt anh, chứ về New York rồi, chúng ta sẽ bị Thái Bình Dương ngăn cách, sợ rằng sẽ mãi mãi không gặp được nhau nữa”.

Lâm Cảnh Phong nhỏ giọng: “Trung Quốc lớn như vậy, cũng khó chạm mặt ai đó giữa biển người mênh mông lắm”.

Triển Hành cười: “Chẳng phải chạm mặt rồi đó sao?”.

Tuyết trắng trải dài ngàn dặm, Triển Hành tiến lên phía trước một bước, Lâm Cảnh Phong lạnh lùng: “Tiểu Tiện, đừng qua đây, anh không phải sư phụ của em nữa rồi”.

Triển Hành lại hỏi: “Vì sao anh không về nhà mà lại đi làm việc cho sư phụ anh?”.

Lâm Cảnh Phong bình tĩnh đáp: “Anh chưa bao giờ có nhà”.

Triển Hành: “Chị Bân bảo anh về sư môn rồi, thật à?”.

Lâm Cảnh Phong cau mày: “Chị Bân? Sao em lại đụng mặt chị ấy?”.

Triển Hành: “Chị Bân ở cùng chỗ với tụi em mà, chị ấy đăng ký làm hướng dẫn viên bản địa, phụ trách dẫn cả đoàn tới Ali, nhưng đã lạc nhau trong trận bão tuyết rồi…”.

Lâm Cảnh Phong lớn giọng: “Lúc nào gặp chị ấy, hãy báo với chị ấy rằng Tiểu Song vẫn còn sống, đã đi theo ông già rồi, chuyện lần này chị ấy không nhúng tay vào được đâu, đừng lo lắng cho anh, lập tức trở về đi”.

Triển Hành chẳng hiểu ra làm sao, bèn hỏi: “Ý là gì?”.

Lâm Cảnh Phong hỏi ngược lại: “Cục đá mà tướng quân Mèo cho em lúc ở trong ngôi mộ dưới đáy biển, em vẫn còn giữ chứ?”.

Triển Hành đáp: “Còn, sao vậy?”.

Triển Hành lấy cục đá vuông từ trong túi áo ra, vẻ mặt thoáng chần chừ, Lâm Cảnh Phong nói: “Đưa anh đi, em đã đồng ý tặng nó cho anh rồi”.

Triển Hành nhíu mày nhìn Lâm Cảnh Phong, Lâm Cảnh Phong lấy một thứ từ trong túi áo khoác ra, chính là bạch ngọc long văn bội: “Anh đổi cái này cho em”.

Triển Hành thất vọng: “Không cần đâu, tặng anh cục đá này luôn đấy”.

Triển Hành cứ tưởng Lâm Cảnh Phong đến đây để gặp mình, Lâm Cảnh Phong nghĩ ngợi giây lát mới hiểu ra suy nghĩ trong lòng Triển Hành, bèn thì thầm: “Tiểu Tiện, món đồ này rất quan trọng, để em giữ chỉ dẫn tới những phiền phức không đáng có mà thôi”.

Triển Hành chầm chậm nhích lên phía trước, Lâm Cảnh Phong lại nói: “Đừng qua đây”.

Triển Hành: “Em… em không qua đâu, em để nó trên mặt đất, được không?”.

Trong lòng Lâm Cảnh Phong dâng lên nỗi chua xót khó nói.

Triển Hành đi lên mấy bước, đang muốn đặt cục đá vuông xuống thì sau lưng vang lên tiếng Hoắc Hổ.

“Thứ đó không phải của cậu”. Hoắc Hổ lạnh lùng nói.

Lâm Cảnh Phong rút khẩu Chim Ưng Sa Mạc ra, kéo chốt an toàn, Hoắc Hổ vác một thanh đao Tạng dài gần một mét trên vai, chẳng hề sợ hãi.

“Anh là ai?”. Lâm Cảnh Phong khàn giọng: “Trong Hoắc môn không hề có người nào như anh”.

Hoắc Hổ bình tĩnh nhìn thẳng vào mắt kính của Lâm Cảnh Phong: “Tôi không giết cậu, cậu đi đi, đừng mơ lấy được bất cứ thứ gì không thuộc về cậu, bằng không sẽ dẫn đến họa sát thân”.

Lâm Cảnh Phong lạnh lùng: “Anh muốn dùng một thanh đao Tạng để đấu với súng lục của tôi?”.

Hoắc Hổ nhướng hai hàng lông mày rậm thách thức: “Muốn thử không?”.

Vừa dứt lời, Hoắc Hổ vọt lên nhanh như chớp!

Triển Hành la: “Đừng nổ súng!”.

Hoắc Hổ vừa xông vào giữa trời tuyết, Lâm Cảnh Phong vội lùi nhanh ra sau, Triển Hành cảm thấy mắt mũi hoa lên, Hoắc Hổ cầm nguyên thanh đao chưa rút khỏi vỏ hất tuyết ở ngay chỗ đặt chân đầu tiên của Lâm Cảnh Phong bay lên tung tóe.

Hoắc Hổ quỳ một gối xuống đất, thong thả rút đao Tạng ra.

Triển Hành: “Đợi đã!”.

Lâm Cảnh Phong không nói gì nữa, chỉ bằng một chiêu đơn giản, anh đã nhạy cảm đoán ra được, người trước mặt này không phải loại mình có thể đấu lại bằng tay không, cũng không thể ở ngay trước mặt Triển Hành mà nổ súng bắn chết bạn cậu, bèn cất Chim Ưng Sa Mạc, xoay người chạy vụt đi, nhảy lên một cái, biến mất sau núi đá.

Hoắc Hổ đứng thẳng người dậy, hai tay vẫn nắm thành quyền, cầm ngang thanh đao Tạng rồi tra nó vào vỏ.

Triển Hành đứng giữa nền tuyết, bất động hồi lâu.

Lâm Cảnh Phong đã tới, lại vội vàng bỏ đi.

Hoắc Hổ nói: “Vào trong thôi”.

Lâm Cảnh Phong chạy tới sau vách núi, bỏ kính xuống, ngồi lên xe máy vặn tay ga, bánh sau hất tuyết tung tóe, lượn một vòng trong tiếng nổ điếc tai rồi lao thẳng ra quốc lộ Laza mất bóng.

Lâm Cảnh Phong gỡ kính râm xuống, đôi mắt đỏ ngầu đẫm lệ bị thổi bay trong gió, nước mắt nóng hổi rơi vào gió lạnh, lập tức đóng thành băng.

Triển Hành nói: “Không vào đâu, không ngủ được”.

Hoắc Hổ: “Vậy đi dạo quanh đây nhé? Anh đi chung với chú”.

Triển Hành đề nghị: “Chúng ta đi tiểu đi, anh uống nhiều sữa tươi như vậy không mắc tiểu à?”.

Hoắc Hổ: “Không tiểu, tiểu không ra”.

Triển Hành nằng nặc đòi tiểu, Hoắc Hổ nhất định không tiểu, cuối cùng chốt: “Chú tự đi đi”.

Hoắc Hổ theo sau Triển Hành, Triển Hành lè lưỡi, đi theo dấu chân của Lâm Cảnh Phong ra sau vách núi, như đang tìm kiếm hơi thở của Lâm Cảnh Phong.

Sau vách núi có một con đường nhỏ, dấu chân kéo dài hướng lên đỉnh núi.

Hoắc Hổ hỏi: “Người đó là ai?”.

Triển Hành đáp: “Là tiểu sư phụ của tôi”.

Triển Hành vừa đi lang thang vừa kể cho Hoắc Hổ nghe những chuyện xảy ra từ khi mình về nước tới nay, Hoắc Hổ giống như một người thân, nhưng lại không hề có thói quen dạy bảo cậu như những người trong gia đình khác, Triển Hành khó khăn lắm mới gặp được một người để mình thật lòng tâm sự như vậy, nên đã kể hết quá trình quen biết Lâm Cảnh Phong không hề giấu diếm.

Cuối cùng Triển Hành thở dài: “Tôi cảm thấy, anh ấy rất tốt với tôi, anh ấy hỏi tôi thích anh ấy chỗ nào? Tôi có thể nói được mình thích chỗ nào sao? Thích một người vốn chẳng cần nhiều lý do như vậy, có phải không?”.

 “Tôi cảm thấy anh ấy rất đẹp trai, rất ngầu, còn quan tâm chăm sóc tôi, cho nên tôi thích, đương nhiên anh Hổ, anh cũng rất đẹp trai rất ngầu, chỉ là tôi không có cái cảm giác đó, đủ thấy…”.

Hoắc Hổ lịch sự nịnh lại một câu: “Cảm ơn, Triển Hành, chú em cũng vừa đẹp trai vừa ngầu”.

Triển Hành giật khóe miệng, dù cậu được thừa hưởng gen trội ngoại hình của hai người cha, nhưng tự biết mình có thế nào cũng không thể xứng với chữ “ngầu” được, đành nói tiếp: “Cho nên đủ thấy, thích, vốn là không có lý do”.

Hoắc Hổ gật đầu, giữ phẩm chất tốt đẹp của thính giả trung thành – không đưa ý kiến.

Triển Hành: “Anh chỉ biết uống sữa bò thôi! Nói cái gì khác đi!”.

Hoắc Hổ chìa hộp bánh kem trong tay ra: “Ăn miếng không? Anh thấy sữa bò Yili không ngon bằng Mengniu”.

Triển Hành ủ dột: “Đây là tình đầu sao? Mối tình đầu xác định sẽ thất bại mà người ta vẫn nói?”.

Hoắc Hổ: “Chú em còn nhỏ lắm”.

Triển Hành hơi cáu bẳn: “Ai cũng nói câu này, bảo về sau tôi sẽ gặp được người tốt hơn… ngay chính Cảnh Phong cũng nói như vậy, hừ”.

Cuối con đường, trên sườn núi không cao mấy có một ngôi chùa.

Đi tiếp lên trên nữa là một vách núi dựng đứng.

“Nơi này có chùa sao?”. Triển Hành lấy làm lạ.

Ngôi chùa cũ nát, cánh cửa đổ sập trong bão tuyết, gần như bị cơn bão san phẳng non nửa. Trong đêm tuyết sáng vằng vặc, có thể lờ mờ trông thấy một đốm đèn bơ nhỏ như hạt đậu chập chờn bên trong.

Trong chùa có người?!

Triển Hành đi qua bức tường đổ nát, Hoắc Hổ đứng ở ngoài cửa, dừng chân.

Hoắc Hổ: “Chú vào đó xem thử đi? Biết đâu lại lĩnh ngộ ra được cái gì”.

Trong chùa có thờ một bức tượng bùn, nước sơn vàng tróc quá nửa, trong chính điện có một lão Lạt Ma ngồi khép hai mắt, mặc cà sa đỏ, đội mũ bông màu cam.

Đây là Phật gì? Triển Hành đứng giữa ngôi điện bụi bặm trống trải, ngẩng đầu nhìn ngắm tượng Phật kia.

Lão Lạt Ma mở miệng: “Đây là pháp tướng của Đại Thế Chí Bồ Tát”.

Triển Hành: “!!!”

Triển Hành hoàn toàn không ngờ giữa ngôi chùa đổ nát trên cao nguyên Thanh Tạng xa xôi này lại có một lão Lạt Ma biết nói tiếng phổ thông bằng giọng Bắc Kinh cực kỳ chuẩn xác như vậy.

“Ngài nói được tiếng phổ thông á?”.

Lão Lạt Ma vẫn nhắm mắt, ngồi ngay ngắn giữa không gian tối tăm, thậm chí không hề có ý định mở mắt ra nhìn Triển Hành.

Triển Hành ngắm nhìn cờ phướn sau tượng Phật, trên đề một hàng chữ Tạng, lão Lạt Ma chậm rãi đọc lại, giải thích: “Vạn vật đều tùy anh sử dụng, nhưng không phải đều thuộc về anh. Đây là một câu châm ngôn trong Phật giáo Tạng truyền”.

Triển Hành thêm một lần giật mình hoảng hốt!

Trong giấc mơ kia, khi Cát Tường Kim Cương kéo chiếc cung không tiễn, lời cuối cùng nói với Tán Phổ Lãng Đạt Mã diệt Phật, cũng chính là câu này!

Trong lòng Triển Hành dâng lên cảm giác không thể nào tin nổi, giống như duyên pháp mà Phật gia vẫn nói, xem ra giữa sâu thẳm mịt mù, mọi vật trên thế gian đều có liên hệ với nhau.

Triển Hành nhìn cây đèn trước tượng Phật, đang nghĩ có nên châm chút dầu vừng vào hay không, thì lão Lạt Ma đã chậm rãi nói: “Trong lòng thường có thiện niệm, không cần tiền tài, thắp một ngọn đèn bơ là đủ”.

Triển Hành từng nghe cha Lục Thiếu Dung nói qua, Mật Tông của Tây Tạng có “Ngũ nhãn” và “Lục thông”. Ngũ nhãn gồm “Nhục nhãn[1], Tuệ nhãn[2], Pháp nhãn[3], Thiên nhãn[4], Phật nhãn[5]”. Lục thông còn được gọi là “Lục thần thông”, chia làm “Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông, Thần túc thông, Lậu tẫn thông, Tục mệnh thông, Tha tâm thông”. Mà lão Còi To[6] trước mặt này, nói không chừng là đã luyện được Phật pháp “Tha tâm thông”, vừa nhìn đã thấy rõ những gì mình đang suy nghĩ trong lòng.

Triển Hành tức khắc không dám cợt nhả đùa bỡn nữa, bỏ đi suy nghĩ chọc ghẹo mà chắp tay trước ngực, nghiêm chỉnh thắp sáng một ngọn đèn bơ.

Cậu thắp đèn xong, lão Lạt Ma lại nói: “Trong lòng luôn có tình cảm, nhưng không thể chấp nhất, bởi vì vạn vật chia lìa là điều không tránh khỏi. Đi đi, con trai”.

Triển Hành thở ra một hơi dài, hỏi: “Đi đâu ạ?”.

Lão Lạt Ma đáp: “Cứ theo chỉ dẫn trong lòng con, tự nhiên sẽ có chốn đi”.

Triển Hành nhíu mày, không nói gì nữa, đi ra khỏi ngôi chùa đổ.

Hoắc Hổ vẫn đứng trong sân trông chừng Triển Hành, giờ thấy cậu đi ra, bèn cầm đao sang tay trái, ánh mắt ý vị sâu xa: “Hỏi về tình cảm đúng không? Ông ấy nói gì?”.

Triển Hành lè lưỡi: “Bảo tôi không đu nổi thì đừng đu”.

Triển Hành cứ cảm thấy ngôi chùa này thật kỳ lạ, lúc xuống núi còn quay đầu nhìn lại lần nữa.

Dưới núi gió tuyết đã lặng, xe của viện trưởng Lý chạy dọc theo đường cái tìm kiếm, cuối cùng đã thấy bọn họ, một đám học sinh sôi máu nhao nhao trách mắng Triển Hành lại tự tiện ra ngoài một mình nữa.

Lý Bân lớn tiếng nhất, Triển Hành nói: “Đừng kích động thế, cậu ấm đây chỉ lên núi dạo một vòng, vào chùa thắp một ngọn đèn bơ thôi mà”.

“Lên núi? Trên núi có chùa?”. Trần Lạc Lạc ngờ vực.

“Ừ đó”. Triển Hành nói: “Trong chùa còn có một lão Lạt Ma, nghe bảo trong chùa thờ Bánh Hồng To… Quả Hồng To Bồ Tát! Mấy người muốn đi coi thử không?”.

Trần Lạc Lạc nói: “Giữa sườn núi chỉ có một ngôi miếu hoang hơn sáu trăm năm trước, Lạt Ma ở đâu ra?”.

Triển Hành: “…”

Trần Lạc Lạc cảnh giác nhận ra vấn đề: “Cậu đi lúc nào? Làm gì có chuyện đó!”.

Triển Hành dõng dạc: “Tuyệt đối có! Không tin thì theo tôi! Chỉ mất nửa giờ đi đường thôi”.

Triển Hành dẫn mọi người đi thẳng lên núi, trở về trước ngôi miếu đổ.

Cánh cửa mục nát khép hờ, dấu chân Triển Hành lúc đi ra cùng vết bụi bặm quanh đệm cói vẫn còn, nhưng trong miếu vắng tanh, chẳng biết lão Lạt Ma đi đâu mất rồi.

Triển Hành dựng tóc gáy: “Không thể nào! Mới nãy còn ở trong này mà!”.

Trần Lạc Lạc hỏi: “Lão Lạt Ma trông thế nào? Cậu mà cũng hiểu được tiếng Tạng?”.

Triển Hành: “Ông ta nói được tiếng phổ thông, còn là giọng Bắc Kinh nữa”.

Hoắc Hổ từ đầu đến cuối vẫn lặng thinh, Trần Lạc Lạc kiểm tra một vòng trong miếu, phát hiện bấc đèn bơ vẫn còn lượn lờ khói xanh, lập tức hiểu ra.

Triển Hành: “Đó là ai? Chị biết Lạt Ma à?”.

Trần Lạc Lạc bỏ kính đi tuyết xuống, nói: “Đi thôi, đừng hỏi nữa”.

Gongji dẫn các con trai của anh ta giúp đám học sinh đẩy chiếc xe Jeep đã chết máy lên đường cái, chín giờ sáng đoàn thám hiểm tạm biệt mọi người tiếp tục lên đường.

Triển Hành tựa vào cửa sổ xe, trong lòng ngập tràn hình ảnh của Lâm Cảnh Phong.

Áo khoác đen thui, hốt hoảng liếc mắt, anh ấy muốn đi đâu? Dường như Lâm Cảnh Phong đã thay đổi rất nhiều, đẹp trai hơn trước, cũng vô tình hơn trước. Cậu không còn được nghe câu nói: “Tiểu Tiện, qua đây” của Lâm Cảnh Phong nữa rồi.

Thay vào đó lại là “Tiểu Tiện, đừng qua đây”.

Tiểu Song vẫn còn sống, Triển Hành và Lâm Cảnh Phong đã cắt đứt hẳn rồi, Lâm Cảnh Phong nói không sai, hai người thuộc về hai thế giới khác biệt, cho dù tạm thời giao nhau, đến cuối vẫn sẽ tách ra.

Triển Hành gửi một tin nhắn cho Trần Lạc Lạc: “Tiểu sư phụ nói, Tiểu Song vẫn còn sống”.

Thật lâu sau Trần Lạc Lạc mới nhắn lại: “Biết rồi, lo mà sống cho tốt”.

Chị Bân, Lâm Cảnh Phong, lão Lạt Ma, tất cả bọn họ đều bảo cậu không nên tiến lên phía trước thêm một bước, như thể trước mặt cậu chính là vực sâu vạn trượng. Triển Hành không khỏi sinh nghi, trên đời này thực sự có thứ gọi là định mệnh sao?

Nửa tiếng sau, Hoắc Hổ ợ sữa một tiếng, thế là nội dung trong não Triển Tiểu Tiện quay ngoắt một trăm tám mươi độ, tự động chuyển từ vẻ ngoài anh tuấn của Lâm Cảnh Phong sang khẩu đại bác tinh cầu thô – to –  dài của Hoắc Hổ.

Hai chiếc xe Jeep dừng bánh giữa cánh đồng hoang cách ba mươi dặm về phía Tây Zanda, Trần Lạc Lạc dẫn đoàn, đám học sinh chuyển đồ xuống đi bộ.

Trần Lạc Lạc dừng bước: “Ông anh cao to kia, không giúp à?”.

Hoắc Hổ gẩy mắt kính, cũng đeo một cái lên cho Triển Hành, tránh cho nền tuyết phản quang làm hại mắt, vô tư nói: “Có phải tôi đến để khuân vác đâu”.

Trần Lạc Lạc nhìn thùng sữa tươi Hoắc Hổ đang cắp nách: “Mùa này khó mời dân bản địa lắm, giúp một tay đi, phải chuyển đồ lên núi, thể lực đám học sinh chịu sao nổi. Anh thích uống sữa đúng không? Lúc nào về tôi tặng anh một thùng”.

Hoắc Hổ khẽ động mày: “Không được có melamin đấy, uống vào sẽ thành não tàn”.

Trần Lạc Lạc dở khóc dở cười gật đầu, dụ dỗ Hoắc Hổ thành công, Triển Hành im lặng theo cuối đoàn đi lên núi.

Trần Lạc Lạc nhỏ giọng: “Lâm Cảnh Phong nói gì với cậu?”.

Triển Hành lắc đầu, ánh mắt sau gọng kính nhìn sâu vào hai mắt Trần Lạc Lạc.

Triển Hành: “Chị tới đây để khuyên Cảnh Phong, tôi đoán đúng chứ?”.

Trần Lạc Lạc hơi ngẩn người, nói: “Không hẳn vậy, ông già là một kẻ nham hiểm, Lâm Tam không nên quay về, lúc đầu là lỗi của tôi, không ý thức được yêu cầu tìm xương Phật kia là của ông già, hại các cậu rơi vào bẫy rập”.

Triển Hành thở dài, đứng trong tuyết nói: “Nếu anh ấy cảm thấy như vậy là tốt, thì tôi cũng chẳng có lý do gì để xía vào”.

Trần Lạc Lạc gỡ kính đi tuyết xuống, quan sát thật kỹ Triển Hành, thoáng cảm thấy Triển Hành như có chỗ nào đó khác so với mấy lần gặp trước.

“Lâm Tam đã khiến cảnh sát Trung Quốc chú ý, tôi đoán sẽ có người đuổi tới nơi này nhanh thôi”. Trần Lạc Lạc nói: “Trước khi tới tôi đã điều tra cặn kẽ rồi, tình hình hiện tại phức tạp vô cùng, cảnh sát Trung Quốc, ông già, cộng thêm các cậu, chuyến đi Cổ Cách lần này nói không chừng sẽ rước lấy phiền phức lớn”.

Triển Hành nói: “Sao chị biết?”.

Trần Lạc Lạc nhỏ giọng: “Sau khi các cậu đi, có vài tên tìm tới tiệm của vợ chồng tôi, muốn bắt tôi về, nhưng bị tôi cắt đuôi rồi”.

Triển Hành sực nghĩ ra: “Nguyên nhân là từ cái khánh kia?”.

Trần Lạc Lạc do dự lắc đầu, Triển Hành lại hỏi: “Sư phụ của các chị là loại người thế nào?”.

Trần Lạc Lạc trầm giọng: “Rất khó miêu tả”, rồi chợt hô lên: “Các bạn học sinh, địa hình nơi này thích hợp để cắm trại! Xin hãy tập trung lại”.

“Chín trăm năm trước, nền văn minh miền Tây của Tây Tạng phát triển tại lưu vực sông Tượng Tuyền, mô hình quốc gia cổ Tượng Hùng[7] mà các em thấy trên ảnh chụp chính là tiền thân của vương quốc Cổ Cách”. Viện trưởng Lý giảng giải cho các học sinh nghe: “Xa xưa khi thời đại Lãng Đạt Mã diệt Phật kết thúc, cả nền Phật giáo Tạng truyền gần như mất sạch, Lãng Đạt Mã đã bị một tăng nhân là Lạp Long Bối Cát Đa Kiệt dùng cung tên bắn chết, vương triều Thổ Phồn bị chia thành hai phái”.

“Hai phái mỗi bên ủng hộ lập một người con trai của ông ta, tiến hành cuộc chiến kéo dài cả trăm năm, cuối cùng vương tôn Đức Tổ Cổn dẫn một nhóm dân Tạng chuyển tới lưu vực sông Tượng Tuyền, chính là tòa di chỉ Cổ Cách mà chúng ta thấy tại đây”.

Trên dãy núi sau lưng viện trưởng Lý có vô số hang trú ẩn xây dựa vào núi, trùng điệp nhấp nhô, diện tích chừng hai ba mươi hecta, hang này nối tiếp hang kia.

“Nền kiến trúc Cổ Cách kéo dài hơn sáu trăm năm, cuối cùng lặng lẽ biến mất, tất cả người dân đều rời khỏi nơi này chỉ trong một đêm”.

Triển Hành đi theo viện trưởng Lý lên núi, đột nhiên cất tiếng: “Có chỗ gần giống với vài nền văn minh trước đó”.

“Phải”. Giáo sư Dương tuổi đã lục tuần, nhưng thể trạng lại không thua kém người trẻ tuổi, tràn trề hứng thú: “Lão Lý đã từng nhắc đến, mấy nền văn minh cổ đại như Atlantis hay Maya cũng trong biến mất chỉ trong một đêm, tình hình rất giống với Cổ Cách”.

Viện trưởng Lý nói: “Trước đó một khoảng thời gian, người dân Tạng ở Zanda chăn thả ở đây, phát hiện có một lối vào thành vương quốc Cổ Cách dưới lòng đất, dựa theo ảnh chụp có thể phán đoán sơ bộ là lối vào này có niên đại tương đương với thời gian vương quốc Cổ Cách được thành lập, đây là địa cung do quân chủ khai quốc Đức Tổ Cổn sai dân phu đào ra. Biết đâu chừng trong quá trình nghiên cứu lần này, chúng ta có thể tìm được mối liên hệ nào đó giữa các nền văn minh với nhau”.

“Chúng ta vẫn nên xem thử tình hình di chỉ Cổ Cách trước, rồi ngày mai mới xuất phát tới địa cung, lối vào nằm ngay phía Tây chỗ này thôi”.

Triển Hành lấy điện thoại ra chụp ảnh, phế tích Cổ Cách được xây dựa vào núi, chia thành ba bộ phận chính, Hồng Điện ở sườn Tây, Bạch Điện ở mặt đông cùng với Luân Hồi Điện ở chính giữa. Dù đã trải qua gần ngàn năm, nhưng các bức bích họa vẫn được giữ gìn hết sức hoàn hảo, ở đây thời tiết khô hanh, núi cao đã chặn lại hơi ẩm thổi từ Ấn Độ Dương phía Tây rồi.

Các hầm cư trú nối tiếp nhau giống như cung điện Potala huy hoàng, chính là nguyên mẫu của kiến trúc dựa núi kiểu Tạng. Hình vẽ trên các bức bích họa chủ yếu là công pháp nam nữ song tu của Mật Tông, còn có mấy chục hình vẽ Không Hành Mẫu lõa thể bên dưới bích họa nữa.

Đó là những truyền thuyết cổ xưa của Phật giáo Tạng truyền, viện trưởng Lý vừa giải thích vừa đi men lên.

“Giờ chúng ta sắp đi tới một nơi khó tưởng tượng nhất của vương quốc Cổ Cách”. Viện trưởng Lý giơ đèn pin chiếu sáng hai bên đường hầm: “Chỗ sâu nhất ở đây là một hang thi thể người Tạng, trong vòng hơn trăm năm kể từ khi nền văn minh Cổ Cách được phát hiện đến nay, gần như không ai giải thích được bí ẩn này”.

Các nữ sinh lập tức lạnh sống lưng, Lý Bân can đảm hỏi thử: “Chính là hang thi thể không đầu ạ?”.

Giáo sư Dương gật đầu cười: “Đúng là hang thi thể không đầu, các em đừng lo lắng, nơi này không có bất kỳ lời nguyền rủa nào, có rất nhiều học giả đã từng vào đây, đều ra ngoài an toàn cả”.

Mọi người đi sâu vào trong đường hầm, thấy có một mùi hôi thối ập thẳng vào mặt, vội vàng bịt hết mũi lại.

Dù Triển Hành không sợ mấy, nhưng vẫn ngoan ngoãn nghe theo lời dặn của Trần Lạc Lạc, không rời khỏi Hoắc Hổ nửa bước.

Trong động toàn là xác chết, được bọc lại bằng áo vải không cổ kiểu Tạng, xếp chồng lên nhau rất chỉnh tề, hang sâu hoắm, rộng gần trăm mét vuông, những chỗ đèn pin của viện trưởng Lý chiếu vào hiện ra lớp lớp thi thể chồng chất. Có xác nam, cũng có xác nữ, khí hậu khô hanh, thi thể thối rữa cực chậm, hơn sáu trăm năm trôi qua mà cả ngàn cỗ thi thể vẫn có những cái còn khá nguyên vẹn.

Tất cả thi thể đều có một đặc điểm chung, chính là không đầu.

Triển Hành hỏi: “Đầu của bọn họ đâu mất rồi?”.

“Không rõ”. Giáo sư Dương nói: “Nơi này được xếp vào một trong mười bí ẩn lớn chưa có lời giải ở đặc khu Tây Tạng, thứ chúng ta đang nhìn thấy, chính là bốn trăm bốn mươi mốt cỗ thi thể không đầu xếp ở tầng hố trên cùng, phía dưới còn có mười hai tầng nữa, theo báo cáo đo đạc khảo cổ bốn mươi năm trước, những thi thể này có niên đại gần cả nghìn năm, vô cùng hiếm thấy, đống xác được bảo quản cực kỳ hoàn hảo”.

 Triển Hành nhìn một lúc, cảm thấy cũng thường thôi, nhưng trong đám người đi sau có cô sinh viên nữ sắp nôn đến nơi rồi, viện trưởng Lý bèn dẫn bọn họ ra khỏi đường hầm, đi sang gian khác.

“Còn đây là nơi đặt thi thể trẻ sơ sinh”. Giáo sư Dương giới thiệu.

Triển Hành và vài sinh viên bắt đầu mở đèn lên chụp hình.

Trong một hang trú ẩn rộng rãi khác có đến hơn một ngàn bàn thờ Phật, giữa mỗi bàn thờ đều cố định một cái đế tròn bằng bùn, nhỏ thì chỉ cỡ lòng bàn tay, lớn thì bằng cả cái mâm ăn, trên đế bùn có rất nhiều tượng Phật điêu khắc, đều là những vị Phật Ấn Độ mà Triển Hành không gọi được tên.

“Loại đế bùn này là hình thức bảo tồn tượng Phật đặc trưng của các tôn giáo như Phật giáo Ấn Độ hay Phật giáo Tạng truyền, tiếng địa phương gọi là “Sát Sát”, có các loại tượng như Tì Lô Già Na Phật, Độ Mẫu, Kim Cương vân vân. Ngài Hoắc, xin đừng phá hỏng văn vật!”.

Hoắc Hổ táy máy gỡ một cái đế bùn trên bàn thờ Phật xuống, hỏi: “Đây là cái gì?”.

Giáo sư Dương nhìn kỹ một lúc, lấy làm lạ: “Đây là… một người đàn ông để tóc, lão Lý, ông qua đây xem này, trong tượng Phật có ông ta à?”.

Viện trưởng Lý nhìn một cái, nói: “Đây chính là Tán Phổ Lãng Đạt Mã, theo lý mà nói… không nên xuất hiện ở nơi này chứ”.

Hoắc Hổ lại đặt tượng trở về chỗ cũ, đám sinh viên tản ra chụp hình, dưới bàn thờ đều là thi thể trẻ sơ sinh, Triển Hành đưa di động đến gần hơn một chút.

Thi thể trẻ sơ sinh kia đen kịt toàn thân, trừng con ngươi đục ngầu nhìn thẳng vào Triển Hành.

“Đừng chụp”. Hoắc Hổ chắn bàn tay to trước ống kính di động: “Cẩn thận quấy nhiễu hồn ma”.

Hoắc Hổ nói lời này khiến cả đám sởn gai ốc, tranh thủ chụp hình cho xong rồi ra ngay.

“Bác nghĩ trong địa cung này có gì?”. Triển Hành hỏi viện trưởng Lý.

Viện trưởng Lý lắc đầu: “Đây chính là mục đích cuối cùng của chuyến đi này, lối vào địa cung nằm tại nhánh núi Himalaya phía Đông, một nửa thuộc lãnh thổ Trung Quốc, theo như thăm dò sóng âm dưới lòng đất, diện tích bên dưới có một phần kéo dài tới tận biên giới Trung Ấn. Hành động khảo cổ này dễ dẫn tới tranh cãi, cho nên chính phủ không cho phép nhiều đội khảo cổ vào trong”.

Giáo sư Dương bổ sung: “Theo suy đoán thì niên đại của nó có khi phải trước cả khi Đức Nhĩ Cổn dựng nên Cổ Cách, bởi tuổi của cổng chính lâu đời hơn rất nhiều các thành thị xung quanh Cổ Cách, nên rất có thể còn giữ những món đồ cổ vốn thuộc về vương triều Lãng Đạt Mã do Đức Nhĩ Cổn mang tới”.

Triển Hành sực nhớ tới suy đoán đầu tiên mà viện trưởng Lý đưa ra trong nhà Tôn Lượng – chính là Thức Tàng, thì ra bọn họ suy đoán theo hướng đó? Xem ra chơi khảo cổ cũng không dễ, cứ vậy, mọi chuyện sẽ được xâu chuỗi một cách rõ ràng trong đầu rồi.

Lãng Đạt Mã diệt Phật, hủy hoại tất cả chùa miếu và tượng Phật, các tăng nhân khởi động nghi thức Phục Tàng, giấu thư tịch, ý thức các loại vào trong một vài đồ vật nào đó. Lãng Đạt Mã bị ám sát, vương triều Thổ Phồn bắt đầu xảy ra nội loạn: cháu trai Đức Nhĩ Cổn của Lãng Đạt Mã mang theo các đồ cất giấu của Mật Tông đi tới Zanda xa xôi, xây dựng nên vương triều Cổ Cách, đồng thời chôn cổ vật xuống địa cung ở núi Himalaya.

“Mấy người nghĩ trong này sẽ có Thức Tàng? Chính là ý thức của cao tăng, hay linh hồn luân hồi các loại ấy hả?”. Hoắc Hổ cất tiếng hỏi đầy hứng thú.

Trần Lạc Lạc đáp: “Không hẳn, cũng có thể là vài món đồ khác, ví dụ như chiếc cung của Cát Tường Kim Cương chẳng hạn…”.

Trần Lạc Lạc vừa mở miệng, Triển Hành lại ngứa ngáy muốn chọc cười: “Còn có vải bó chân của Quả Hồng To Bồ Tát nữa…”.

Trần Lạc Lạc lườm Triển Hành: “Nếu cậu bị ác quỷ bắt đi, Quả Hồng To… Đại Thế Chí Bố Tát sẽ không phù hộ cậu đâu”.

Hoắc Hổ ngẫm nghĩ, lại nói: “Truyền thuyết kể rằng bội đao của Lãng Đạt Mã cùng với cây cung mà Cát Tường Kim Cương dùng để bắn chết ông ta, cuối cùng đều mất tích”.

Giáo sư Dương nói đùa: “Đúng thế thật, cũng có người bảo con trai cả của Lãng Đạt Mã kế thừa tất cả tài bảo của ông ta, còn con út thì được cây cung và thanh đao Tạng, cuối cùng truyền cho Đức Nhĩ Cổn, nhưng trước giờ không hề có ghi chép nào về chuyện hai món vũ khí này được khai quật, nên rất có khả năng chúng được giấu trong địa cung Himalaya”.

Ánh mắt Triển Hành và Hoắc Hổ đều sáng rực lên, bắt đầu tượng tượng về truyền thuyết thần binh cuối cùng trong game RPG.

Ảo tưởng của Triển Hành:

Triển Hành mặc áo giáp, lẫm liệt uy phong đứng trên đỉnh Himalaya, kéo chiếc cung của Cát Tường Kim Cương trong truyền thuyết, bắn ra một mũi tên chọc thủng thiên không!

KO[8]! Sư phụ đại ma vương của Lâm Cảnh Phong (tên họ không rõ, biệt danh là đại BOSS) bị bắn ngã!

“Dũng sĩ! Cảm ơn chàng đã giết chết ác long! Cứu được ta!”. Lâm Cảnh Phong mặc váy công chúa lệ chan khắp mặt, nhào tới ôm lấy đùi dũng sĩ Triển Tiểu Tiện.

Khoảnh khắc đó, cậu giống như một vị thần vĩ đại.

Ảo tưởng của Hoắc Hổ:

Hoắc Hổ mặc áo giáp, lẫm liệt uy phong đứng trên đỉnh Himalaya, rút thần đao của Lãng Đạt Mã, lưỡi đao chém ra đủ thứ điện quang, sấm sét trên trời tụ hết trong lòng bàn tay.

Hoắc Hổ rống lớn một tiếng, vung đao chém nứt đại địa!

Ầm một tiếng trời long đất lở, dòng sông thánh Yarlung Tsangpo cuộn trào trắng xóa, tràn thành một biển sữa bò; đại địa nứt toác, phun trào thịt bò khô khắp trời.

Hôm sau:

Viện trưởng Lý thuê hơn chục dân Tạng địa phương thu dọn lều trại, dùng bò Tây Tạng chở vật tư đi bộ mất ba dặm đường, xe việt dã đỗ ở ngoài huyện Zanda, tránh đến quá gần biên cảnh Trung Ấn dẫn tới phiền toái không cần thiết.

Bọn họ đi bộ trên cánh đồng giá buốt hoang vu, đồng rêu viễn cổ vẫn giữ được diện mạo sơ khai của nó, Triển Hành lờ mờ cảm nhận được dường như mình từng tới cánh đồng rùng rợn ghê người này lúc nào rồi.

Khắp nơi đều là băng tuyết trắng xóa từ thời thượng cổ, sông Tượng Tuyền chảy ra từ giữa núi non, một dòng thác ngưng đọng thành băng dưới chân núi, ngàn vạn tấm mành băng treo ngược bị cắt thành hai nửa cách mặt đất bốn mươi mét.

Sau thác nước xuất hiện mỏm đá đen thui, chính giữa mỏm đá có một cánh cửa đá khổng lồ cao chừng chục mét.

Trên cửa có sáu chữ chân ngôn của Mật Tông khảm bằng đá khổng tước, trước cửa có không ít người đứng gác.

Quanh đó có một trạm gác đơn giản, viện trưởng Lý lấy thư giới thiệu bằng hai tiếng Tạng, Trung đi lên nói chuyện.

Phần lớn những người đó đều là dân quân địa phương, người Tạng mặt mày ngăm đen, sau khi xem qua thư giới thiệu thì chẳng nói chẳng rằng, lớn tiếng hô lên, thế là có người mở cửa, ý bảo cho vào.

Ở ngoài một khe cạn trên dãy núi cao, có một người mặc áo khoác đen đứng đó, dùng kính viễn vọng quan sát miệng khe phía dưới.

Xe máy của Lâm Cảnh Phong nhả khói, phanh kít lại ngay chỗ cao.

“Vương Song”. Lâm Cảnh Phong xuống xe: “Bọn họ đang trên đường tới đây, làm đúng theo kế hoạch, không được giết người”.

Vương Song bỏ kính viễn vọng xuống, khóe miệng nhếch lên nụ cười đểu: “Tiểu sư thúc, bọn họ đến rồi kìa”.

Khi Lâm Cảnh Phong tới khe núi thì cánh cửa dưới thác nước đang chầm chậm khép lại, anh liếc mắt đã nhận ra ngay Triển Hành đi cuối cùng.

“Sao gác cổng lại thành người của chúng ta thế kia?”. Lâm Cảnh Phong cau mày hỏi: “Dân quân đâu? Cải trang từ khi nào vậy?”.

Vương Song cười giễu: “Lão già dạy đấy, dân binh Zanda đều ở phía sau”.

Lâm Cảnh Phong nghiêm mặt, xoay người đi vào trong hẻm núi, nền tuyết trắng xóa bị nhuộm thành một cái ao tím đen khổng lồ với những cỗ thi thể nằm rải rác.

Đó chính là dân quân vốn đang gác cửa, bị bắn đạn đầy người rồi vứt xác vào trong khe.

“Đi thôi, tiểu sư thúc”. Vương Song sờ lớp da đầu lồi lõm của mình, ném một cây súng máy qua, Lâm Cảnh Phong đưa tay bắt lấy, không nói thêm gì mà nhảy xuống mặt đất bên dưới.

Sau khi đội khảo cổ vào địa cung được chừng hai mươi phút, cánh cửa lớn mở ra lần nữa, mấy chục tên trộm mộ cải trang thành dân binh theo sau Lâm Cảnh Phong và Vương Song lẻn vào khu bảo tàng Cổ Cách của Đức Nhĩ Cổn.

 

Chú thích:

[1] Là con mắt bằng thịt, chỉ thấy những vật có hình tướng, khi đêm tối hay bị vật khác che lấp thì không thể thấy được.

[2] Là con mắt của các nhà tu hành đắc đạo trong hai thừa Thanh Văn và Duyên giác, nhờ dùng trí tuệ quán được chân không vô tướng.

[3] Là mắt trí tuệ của các vị Bồ Tát, thấu triệt tất cả các pháp môn ở thế gian và xuất thế gian một cách rõ ràng, không bị lọt vào tà pháp ngoại đạo nữa.

[4] Là mắt của Chư Thiên ở cõi Sắc giới, cũng là mắt của người tu thiền định chứng đắc, bất cứ xa gần, lớn nhỏ, ngày đêm hay bị vật ngăn cách cũng thấy rõ hết.

[5] Là con mắt của Phật, gồm đủ bốn mắt trên và hoàn toàn sáng suốt thấu hết tất cả.

[6] Còi to, phát âm là lǎ ba, gần giống với Lạt Ma (lǎ ma), Triển Hành đang chơi chữ.

[7] Tượng Hùng là một vương quốc cổ đại ở miền Tây và Tây Bắc Tây Tạng và là nền văn hóa tiền Phật giáo Tây Tạng. Tượng Hùng được đề cập thường xuyên trong các văn bản cổ tiếng Tạng, trong đó có ghi rằng đây là thế lực cai trị ban đầu của khu vực Trung và Tây của Tây Tạng.

[8] Viết tắt của cụm từ tiếng Anh “Knock Out”, nghĩa là hạ đo ván.


Vui lòng click vào dấu mũi tên để lùi hoặc sang chương kế tiếp