LINH HỒN NỔI LOẠN

Chương 05

trước
tiếp

LINH HỒN NỔI LOẠN

Tác giả: Phi Thiên Dạ Tường

Người dịch: Tàng Thư Quán

Chú Tiêu mới cài được một nửa kíp mìn đã bị tiếng hét của Phương Trác làm cho thiếu chút kéo đứt phăng dây dẫn.

Mọi người nổi giận quát: “Kêu cái gì!”.

Triển Hành cầm đèn pin để dưới cằm, chiếu từ dưới lên trên mặt mình, gió thổi lạnh toát, thảm thiết kêu: “Anh Phương ơi…”.

Phương Trác bị dọa phát đó thiếu chút tè ra quần, tức điên lên quát: “Đừng có dọa người ta! Tổ sư gia gia bảo xuống đấu không được dọa người! Phạm phải đại kỵ đấy!”.

Lão giặc già gõ tẩu thuốc xuống đất, nhàn nhã bảo: “Người hù người, hù chết người…”.

Lâm Cảnh Phong ngoắc Triển Hành lại: “Cậu ta không biết, thông cảm, qua đây”.

Lâm Cảnh Phong đã cố ý bao che, lão giặc già cũng không tiện nói thêm nữa, chỉ còn lại Phương Trác vẫn trợn trừng mắt thôi. Triển Hành ngẩng đầu ngắm nghía bức vẽ trên tường, Lâm Cảnh Phong nói: “Theo cậu đây là cái gì?”.

Bích họa được khảm nên bởi những viên đá đủ màu như xanh, vàng, đỏ, rực rỡ muôn sắc, vẽ nên bức chân dung một cô gái.

Triển Hành nói: “Căn cứ vào tiêu chuẩn nghệ thuật hội họa đương thời thì bức tranh này nói đến… một cô gái hết sức xinh đẹp”.

Lâm Cảnh Phong ngờ hoặc: “Là phi tử của ông ta à?”.

Triển Hành nhìn cỗ quan tài đá lặng thinh ở giữa, gật đầu nói: “Có lẽ vậy…”. Cậu còn chưa dứt lời thì chú Tiêu đã cho nổ kíp mìn, ầm một tiếng, đất đá văng tứ tung, quét qua một luồng dư chấn, Triểu Hành vội vàng núp vào sau lưng Lâm Cảnh Phong.

Chỗ mà chú Tiêu đặt thuốc nổ đều là những đoạn tiếp xúc của cửa đá, sau trận nổ cả tảng đá nặng ngàn cân chịu tác động của xung lực ầm ầm đổ xuống.

Bên trong có một giá đồng cỡ lớn, trên giá là những dây đồng buộc các mảnh ngọc thạch to nhỏ khác nhau, dư chấn của trận nổ khiến các mảnh ngọc thạch va vào nhau kêu leng keng.

Mọi người đều lặng thinh.

Lão giặc già chửi thề mấy câu tục tĩu, đi lên kiểm tra, chú Tiêu mừng ra mặt: “Là nhạc khí cổ đại! Lần này được thứ đáng tiền rồi!”.

Cái giá ngọc kia cao chừng gần mét bảy, chia làm hai tầng trên dưới, ngọc thạch từ lớn đến nhỏ, mỗi hàng chín miếng, miếng ngọc ngoài cùng bên trái là nhỏ nhất, chưa bằng lòng bàn tay.

Chú Tiêu ngỡ ngàng gõ khánh ngọc trên giá, quay đầu nhìn Lâm Cảnh Phong, cười bảo: “Có gốc gác gì, chú em nói nghe coi?”.

Triển Hành nhỏ giọng nói chuyện mấy câu với Lâm Cảnh Phong, Lâm Cảnh Phong đi qua, nói:

“Cái này là khánh, tổng cộng có mười tám miếng, chủ nhân trong mộ là một người trong vương tộc, khánh thiên tử có ba mươi sáu miếng, khánh vương tộc mười tám miếng, khánh hầu chín miếng”.

Lão giặc già họ Tạ kích động: “Chắc phải còn thứ đáng tiền khác, tìm tiếp chứ?”.

Chú Tiêu vội nhìn sang phòng ngách bên kia.

Lâm Cảnh Phong đứng trước giá khánh, cúi xuống nhặt chiếc muôi dài treo bên giá, Triển Hành theo qua, lên tiếng: “Đây là nhạc khí rất thịnh hành thời đó, tương truyền Khổng Tử chính là cao thủ chế tạo khánh đấy”.

Lâm Cảnh Phong gõ chiếc muôi dài lên một miếng ngọc, phát ra âm thanh êm tai.

Cùng lúc đó, anh loáng thoáng nghe được có tiếng động khe khẽ nào đấy vang lên từ sâu trong phòng ngách, tựa như âm thanh của viên ngọc đồng lướt qua rãnh lõm.

Ở một bên phòng ngách, trong một góc chết mà chú Tiêu chưa từng nhìn đến, lại có một cái đỉnh thanh đồng nho nhỏ, trong đỉnh đặt vài tấm thẻ đá.

Triển Hành đi đến nhặt ra, đưa về phía ánh đèn ngoài phòng ngắm nghía, trên tấm thẻ viết đầy những ký hiệu kỳ quặc.

Lâm Cảnh Phong hỏi: “Là gì vậy?”.

Triển Hành: “Nhạc phổ để biểu diễn, thử không?”.

Cậu nhận lấy cái muôi dài, thứ gõ nhạc này không phải vàng cũng chẳng phải ngọc, lúc gõ lên miếng khánh thì phát ra những tiếng vang khẽ khàng.

Triển Hành không nghe thấy, nhưng Lâm Cảnh Phong đã phát hiện ra.

“Phía sau có cơ quan”. Lâm Cảnh Phong đè tay Triển Hành lại: “Là dùng nhạc khí để khởi động”.

Triển Hành nghệt mặt: “Có cần nói cho bọn họ biết không?”.

Lâm Cảnh Phong còn đang do dự thì cùng lúc đó phòng ngách bên kia truyền đến tiếng phá nổ, hai người quay ra nhìn, thấy chú Tiêu đã cho nổ thành công cánh cửa đối diện.

Cánh cửa đá thứ hai ầm ầm đổ xuống, hiện ra không gian trong phòng.

“Chuyện gì thế này?”. Chú Tiêu hết sức ngạc nhiên.

Trong căn phòng trống trơn, chỉ có một cỗ quan tài đã bị mở ra, Phương Trác không khỏi run rẩy, lảo đảo lùi vài bước.

Quan tài mở lớn, nắp quan bị quẳng sang một bên, vách tường phía trước của phòng ngách được xây kín như bưng, không có lối ra nào khác, cho dù lão giặc già hiểu sâu biết rộng cũng không khỏi sởn tóc gáy, lẩm bẩm: “Chạy… chạy mất rồi?”.

“Không thể nào”. Lâm Cảnh Phong đón lấy đèn pin, chiếu một vòng lên trần phòng ngách.

Trước khi bọn họ vào đây thì nơi này hoàn toàn đóng kín, vải lót trong quan tài hằn rõ hình người hoàn chỉnh, chứng tỏ có thi thể bên trong, nhưng cửa đá chưa từng bị mở thì sao nắp quan tài lại tự bật ra? Xác cổ chạy đi đâu rồi?

Phương Trác run rẩy: “Bánh tông… bánh…”.

Lâm Cảnh Phong hỏi: “Lúc trước cậu bảo trong này chỉ có hai cỗ thi thể thôi mà? Cỗ thứ ba này ở đâu ra?”.

Triển Hành nhìn kỹ thẻ đá: “Biết đâu được đấy, nói không chừng là một ngôi mộ khác? Vừa mới đào thông chăng?”.

Triển Hành nói vu vơ, nhưng Lâm Cảnh Phong lại ngẫm ra sáng tỏ, anh đi vào phòng ngách dùng ngón tay gảy chút bùn đất trên tường ngửi ngửi rồi bảo: “Đây là một động trộm khác, có lẽ là nơi tay chân của Đảng Ngọc Côn thời Dân quốc đào thông qua”.

“Trong mộ có ba người…”. Lâm Cảnh Phong ngẫm nghĩ: “Đây chắc hẳn cũng là nữ thi, thi thể và đồ tùy táng đã bị chuyển đi từ trước rồi, sau đó cái hang này bị đất đá trôi xuống lấp kín, mới thành như chúng ta thấy lúc này”.

Đến đây mọi người mới thở phào nhẹ nhõm, Lâm Cảnh Phong cúi xuống nhìn kỹ vải lót dưới đáy quan tài, chẳng có gì để lấy cả.

Lão giặc già hậm hực nói: “Đành vậy”.

Chú Tiêu cười: “Cũng đâu phải trắng tay, chuẩn bị dỡ nhạc khí kia mang đi thôi”.

Lâm Cảnh Phong ra hiệu chờ chút: “Xem lại đã”. Nói xong hỏi Triển Hành: “Cậu biết cách chơi nhạc khí không?”.

Triển Hành khoa tay múa chân hồi lâu chẳng đáp chẳng rằng, sau đó đón lấy cái muôi dài, gõ lên cái khánh.

Âm thanh vang lên khi thì trong trẻo, lúc lại trầm đục, tao nhã trang trọng, hết sức êm tai, còn thấm đượm chút đau thương man mác, giai điệu dần dần lắng xuống, cho đến khi trở về tĩnh lặng.

Mỗi khi Triển Hành gõ một nhịp khánh, cơ quan nằm sâu trong phòng ngách lại chịu sự cộng hưởng kỳ lạ, một viên ngọc đồng trượt xuống theo quỹ đạo bên trong vách tường, hợp lại sau bức bích họa giữa hầm mộ.

Những viên ngọc đồng hội tụ khiến cho bức họa bằng đá ngũ sắc sống động kia dần biến đổi, từng viên đá tách ra khiến bức bích họa từ từ lùi lại.

Chú Tiêu thốt lên một tiếng, vội lách mình lao vào trong khe hở trong khi bức vẽ vẫn chưa mở ra hoàn toàn.

“Chờ đã!”. Lâm Cảnh Phong quát.

Tạ lão tặc sải bước như bay, giống như phát hiện được kho tàng mới mẻ, lập tức theo sau chú Tiêu lao vào tít bên trong mộ huyệt.

Triển Hành bỏ chày gõ nhạc xuống, như đang hồi tưởng điệu nhạc ban nãy.

“Đây là nguyên mẫu điếu văn sớm nhất trong lịch sử”. Cậu cầm thẻ đá trong tay hướng về phía ánh đèn ngắm nghía: “Đây chính là phát hiện lớn của ngành khảo cổ, cộng thêm khánh nhạc vừa rồi nữa, chắc hẳn là do chủ nhân của ngôi mộ này sáng tác ra để tưởng nhớ phi tử của mình, cho tôi cuốn điếu văn này được không?”.

Lâm Cảnh Phong nói: “Bọn họ sẽ đem đi bán thôi, từ bỏ hy vọng đi, cậu muốn cái này làm gì? Đem về Mỹ à?”.

Triển Hành nghĩ lại cũng phải, nên chẳng nài nỉ nữa.

Sau bích họa là một lối đi sâu hoắm tối mịt, Lâm Cảnh Phong bật đèn pin, từ từ đi lên, gọi: “Chú Tiêu? Anh Tạ?”.

Không ai trả lời.

Chẳng rõ lối ngầm này thông ra đâu, lại thình lình bị gió lớn quất vào mặt, Lâm Cảnh Phong nghiêng người vung chân đá văng Triển Hành, sau đó thả người nhảy lên, vất vả tránh được mũi tên sắt bắn ngang chân mình.

“Coi chừng!”. Lâm Cảnh Phong quát: “Lùi lại!”.

Triển Hành sợ hết hồn, vội lùi ra sau, chỉ trong vài giây ngắn ngủi, đèn pin trong tay Lâm Cảnh Phong đã chớp nhoáng quét qua, nhận rõ vị trí gạch đá, sau đó nhảy nhanh mấy bước, cuối cùng nghe được tiếng cơ quan vang lên đùng đục, hết thảy mới yên tĩnh lại.

Trong bóng tối, Triển Hành dựa lưng vào tường thở hổn hển, mọi thứ diễn ra quá đột ngột, mãi mới lấy lại được bình tĩnh, hỏi: “Này, anh đâu rồi?”.

Không ai trả lời khiến Triển Hành sợ hãi.

Cậu lấy bật lửa ra, dùng ánh sáng yếu ớt soi tỏ không gian nhỏ hẹp xung quanh.

“Lâm Cảnh… tiểu sư phụ!”. Triển Hành gọi to.

Trên nền đất rải rác mũi tên, Triển Hành không ngừng thở dốc, có tiếng người loáng thoáng truyền đến từ dưới lòng dất, Triển Hành thở phào áp tai xuống nền gạch, lại thêm một mũi tên xẹt qua đỉnh đầu cậu.

Triển Hành: “…”

Cậu thử ấn ấn, một cục gạch di chuyển, Triển Hành hiểu ra đây là một cơ quan di động.

Cậu mở cơ quan, bị ánh đèn pin phía dưới chiếu lên làm cho chói mắt.

“Anh sao rồi!”. Triển Hành sốt ruột gọi.

Lâm Cảnh Phong gào đáp: “Không sao! Cậu quay về cầm dây thừng tới đây!”. Một cái đèn pin khác quơ quơ dưới đáy hố, Triển Hành nhìn thấy lão giặc già họ Tạ dựa người bên cạnh.

Triển Hành nhìn rõ vị trí, đánh dấu vào góc, sau đó bước nhanh về phía cửa động lấy dây thừng.

Lúc cậu đi qua quan tài đá thì phát hiện hình như trong mộ xuất hiện biến hóa cực nhỏ, nhưng lại không thể nói rõ được vấn đề ở đâu. Giữa ngôi mộ u ám, mấy cỗ thi thể nằm ở góc tường, mặt mày thối rữa đầy dữ tợn như đang nhìn chòng chọc từng động tác của cậu.

Cuối cùng Triển Hành cũng cảm thấy sợ, trước đây vẫn luôn có Lâm Cảnh Phong bên cạnh, bây giờ lại phải hành động một mình nên không khỏi sởn tóc gáy.

Triển Hành mở di động, nhờ ánh sáng của màn hình mà chạy thật nhanh qua con đường chính của ngôi mộ, lục ra một cuộn dây thừng leo núi khác trong ba lô của Lâm Cảnh Phong.

Sắp nửa đêm, rừng cây trên sườn núi xào xạc giữa gió lạnh, Triển Hành bị thổi đến run cầm cập.

Cùng lúc đó, dưới đáy hố giữa lối ngầm:

Chú Tiêu búng ngón tay vào vách tường xung quanh, nghe thấy những tiếng kim loại đùng đục.

Nơi mà Lâm Cảnh Phong té xuống là một con đường đá trơn trượt, chạy xéo qua hơn nửa nền ngôi mộ, thông ra một cái hố tuẫn táng, trong hố rải kín xương người trắng hếu, trên trần có một cái cửa sổ to cỡ lòng bàn tay, vừa đúng lúc trăng lên giữa trời, ánh sáng từ cửa sổ vảy xuống, chiếu vào đống xương cốt chất chồng.

“Những bộ xương này đều là dân phu đào mộ”. Chú Tiêu nói.

Lão giặc già dựa vào mép đáy hố thở dốc, khi nhóm đầu tiên gồm lão, chú Tiêu và Phương Trác té xuống, thì bị gãy hai chân.

“Hỏng rồi, già yếu quá, nếu không phải dẫn theo đồ đệ thì làm thêm vài chuyến nữa phải giải nghệ thôi”. Lão giặc già họ Tạ nói.

Mặt Phương Trác đầm đìa máu, lúc mới vào mật đạo có bẫy mũi tên thì bị bắn bị thương tai trái, may mà chỉ sượt qua.

Lâm Cảnh Phong nối chân gãy cho lão giặc già, bảo: “Lấy hai cái xương đùi người chết lại đây làm nẹp cố định cho sư phụ cậu”.

Chú Tiêu nói: “Đây là một căn phòng kim loại, bằng đồng à?”.

Lâm Cảnh Phong đứng dậy, nhìn quanh bốn phía, thấy ánh trăng sáng tỏ, anh cất đèn pin, nhận ra đây là một không gian hình tròn, trên vách tường khắc đầy chữ từ thời thượng cổ.

Lâm Cảnh Phong đáp: “Đọc không hiểu, mật thất hình tròn à? Chắc là hố bồi táng, đợi lát nữa bảo Triển Hành xuống xem thử”.

Chú Tiêu nói: “Chữ này chuyển động được, Lâm tam, cậu coi chỗ này đi”.

Chú Tiêu ấn tay vào một chữ khắc kỳ lạ, khiến nó lõm vào chút ít, sau vách tường đồng hình tròn truyền ra tiếng cơ quan rất khẽ.

Lâm Cảnh Phong nhắc: “Tốt nhất chú đừng sờ bậy bạ”.

Ở một đầu mộ khác:

Triển Hành lần thứ ba đi vào hầm mộ trung tâm, nhìn ngó khắp nơi, muốn buộc dây thừng vào một nơi cố định, chỗ đó chỉ có hai cỗ quan tài đá.

Cậu vòng dây thừng qua cỗ quan tài rỗng, cúi xuống thắt một cái nút, đột nhiên nhận ra có chỗ nào đó khác với lần đầu tiên đi vào.

Ngọn đèn dầu hai bên bích họa đã tắt trong lúc cậu đi ra khỏi lối ngầm kia.

Trong lòng Triển Hành dâng lên cảm giác sợ hãi mãnh liệt.

Trong không gian tĩnh lặng, cỗ quan tài còn lại sau lưng phát ra tiếng vang đùng đục.

Triển Hành: “…”

Triển Hành run rẩy quay đầu lại, nắp quan tài vô cùng thong thả trượt ra.

“Má ơi!!!”. Triển Hành sợ hãi hét ầm lên, té lộn ra phía sau.

Nắp quan tài trượt được một nửa thì dừng.

“A a a a a a a…”. Triển Hành hoảng loạn tóm lấy cái muôi gõ khánh cán dài, chĩa về phía quan tài hét lớn: “Đừng chui ra! Đừng chui ra mà! Bánh tông! Tao cảnh cáo mày! Mày đừng có mà ra đây! Tao là cầu thủ bóng chày đấy!”.

 Triển Hành ném cái móng lừa đen mà Lâm Cảnh Phong đưa cho lúc trước vào trong quan tài.

Quan tài không còn động đậy gì nữa, Triển Hành muốn trào nước mắt tới nơi, cậu nhìn thẳng về phía quan tài, chậm chạp nhúc nhích, hai tay cầm chặt cái chày dài, chuẩn bị nếu có một cánh tay thò ra, thì sẽ nện bay cánh tay đó, nếu có một cái đầu thò ra, thì cho nó một cú home-run[1] luôn.

Nhưng không có phản ứng nào hết, nắp quan tài chỉ hé một nửa, không mở hết cũng chẳng đóng lại.

Triển Hành như sản sinh ảo giác, nhìn thấy thứ gì đó chui ra khỏi quan tài, cậu hoàn toàn tan vỡ, nổi khùng lao lên dùng cái chày dài trong tay ra sức đâm vào quan tài, phát điên hét ầm ĩ: “Nằm xuống! Nằm xuống đi!”.

Đâm xong mấy cái, Triển Hành run rẩy nhặt dây thừng lên, sợ sệt lùi về phía sau, kế tiếp chạy thục mạng vào trong thông đạo.

“Anh anh anh… anh còn ở đó chứ? Sư phụ? Sư phụ đại nhân yêu dấu ơi…”. Triển Hành nhào tới trước cơ quan di động, dùng cả tay lẫn chân quăng dây thừng xuống.

Lâm Cảnh Phong cất tiếng: “Xuống đây, có thứ cho cậu xem này”.

Triển Hành chẳng mong chờ gì hơn, lập tức men theo sườn dốc trượt xuống.

Lâm Cảnh Phong túm được Triển Hành, để cậu đứng vững rồi chỉ vào bức tường: “Nhìn nơi đó đi”.

Triển Hành vẫn còn hoảng hồn, Lâm Cảnh Phong nhíu mày hỏi: “Làm sao đấy?”.

Triển Hành run run khoát tay, chú Tiêu bảo: “Tiến sĩ trẻ, những chữ này nghĩa là gì?”. Nói xong lại ấn lên ký tự chữ khắc trên tường.

Ở một đầu mộ khác, nắp quan tài trượt ra hoàn toàn, phần đáy bật lên nâng dậy một cỗ thi thể nam.

Xác cổ đời Chu từ từ đứng dậy dưới tác dụng của cơ quan, mặt hướng về phía cửa thông đạo.

Trên mặt thi thể nam còn hằn dấu vết của móng lừa đen, mũi bị đâm lệch sang một bên, chính là kiệt tác của Triển Hành ban nãy.

“Đây là… là… chữ chung đỉnh[2]“. Triển Hành nói: “Tôi không hiểu lắm, để tôi xem thử trong điện thoại…”.

Chú Tiêu nói: “Mấy cơ quan kia có thể mở thông ra cửa phòng chứa đồ báu không?”.

Lâm Cảnh Phong khó chịu nhíu mày, ý bảo chú Tiêu đừng hỏi nhiều.

“Trên tường sao… sao lại có chữ chung đỉnh?”. Triển Hành lẩm bẩm: “Không đúng, không nên khắc ở nơi này… đáng lẽ phải khắc trong lòng một cái đỉnh mới đúng chứ”.

Triển Hành ngẩng đầu, nhìn thấy trên trần còn có một cửa sổ cỡ bàn tay, ánh trăng mờ tỏ mịt mù chiếu xuống.

Di động có sóng! Một vạch!

Triển Hành lập tức lấy lại tinh thần, ra dấu tay: “Mọi người chờ chút! Tôi gọi điện thoại hỏi!”.

Lâm Cảnh Phong: “…”

Triển Hành gọi điện về nhà.

New York, bên kia bờ đại dương, một giờ chiều!

Lục Thiếu Dung đang cầm ly cà phê, ngồi trước máy tính gõ một bản báo cáo nghiên cứu thì thấy điện thoại đổ chuông.

Lục Thiếu Dung: “Con trai yêu quý, mấy ngày trước bạn trai con, thiếu gia của tập đoàn tài chính nào đó đã tìm tới nhà mình…”.

Triển Hành: “Ấy ấy, Lục Thiếu Dung, khoan hãy nói chuyện đó, con muốn hỏi ba vài chuyện, liên quan đến văn vật đời Chu của Trung Quốc”.

Lục Thiếu Dung giật mình: “Đời Chu?”.

Lục Thiếu Dung đang tiến hành một đề tài về ba triều đại thượng cổ của Trung Quốc nên rất có hứng thú, bèn dựa vào ghế xoay vân vê huyệt thái dương: “Nói đi con”.

Triển Hành: “Có một thứ được chế tạo bằng kim loại, trên mặt trong của nó khắc đầy chữ chung đỉnh…”.

Lục Thiếu Dung: “Làm bằng kim loại, lại khắc đầy chữ chung đỉnh, không phải là một cái đỉnh sao?”.

Lâm Cảnh Phong ngoắc ngón tay, ra hiệu Triển Hành đưa di động qua đây, Triển Hành xua tay, bấm loa ngoài, mọi người đứng dưới đáy hố đều nghe rõ giọng của Lục Thiếu Dung.

Chú Tiêu khẽ giật lông mày, ý thức được cha mẹ Triển Hành cũng là thế gia đồ cổ nên không dám khinh thường.

Triển Hành: “Là… là một cái đỉnh sao, con không nhìn rõ lắm, có cái đỉnh nào lại to đến vậy à?”.

Lục Thiếu Dung: “Đỉnh to bao nhiêu?”.

Triển Hành: “To cỡ một căn phòng, cao năm mét”.

Lục Thiếu Dung hỏi: “Ở New York không có loại nào giống vậy cả, nhưng ở nước Thục cổ có đồ thanh đồng rất lớn. Con thấy ở đâu thế?”.

Triển Hành bịa chuyện: “Viện bảo tàng văn hóa lịch sử Tây An”.

Lục Thiếu Dung nói: “Mới khai quật gần đây à? Ba không có chút tài liệu gì về nó, trên lý thuyết thì cũng có thể làm loại đỉnh to như thế, tụi con trèo thang vào đỉnh tham quan sao?”.

Triển Hành vội chối: “Không phải, nó được đặt nằm ngang, có lẽ là văn vật mới đào ra… bởi vì không có bất cứ lời thuyết minh nào cả, nên con thấy rất kỳ quặc. Chữ chung cổ trên bụng đỉnh có hình tròn, con không nhìn ra được nó bắt đầu từ đâu, ba giải thích cho tụi con biết đi, lúc đào ra thì đáy đỉnh rải đầy xương người chết, là dân phu bị chôn theo”.

Lục Thiếu Dung: “Đây chắc là một loại cơ quan trong mộ đã từng xuất hiện thời Chiến Quốc, họ đặt loại đỉnh này trong một mật đạo nào đó, rồi tàn sát nô lệ chôn cùng… chữ khắc chuyển động trong đỉnh thông với toàn bộ cơ quan trong mộ huyệt, tốt nhất con nên miêu tả tỉ mỉ một chút”.

Triển Hành: “Con đã gửi hình vừa chụp được vào thư điện tử của ba rồi đó”.

Lục Thiếu Dung ngồi thẳng lưng, nhấp chuột mở thư, quan sát ảnh chụp chốc lát: “Chụp từ góc nào vậy? Đèn flash mờ quá”.

Triển Hành đương nhiên không thể nói cho ba biết là mình chụp được trong bụng đỉnh, bèn ấp a ấp úng trả lời cho có lệ, lát sau, trong điện thoại truyền đến tiếng Lục Thiếu Dung:

“Đây là một kiểu trang trí khá kỳ lạ, tất cả chữ khắc đều có một công dụng duy nhất là làm chốt mở, trong bụng đỉnh còn có góc nhọn nào nhô ra nữa không?”.

Triển Hành vui mừng đáp: “Có, có đó! Sao ba biết thế?”.

Chú Tiêu và Lâm Cảnh Phong cúi xuống, nhìn thấy vô số gờ kim loại sắc nhọn lồi ra trên một hàng chữ khắc.

Lục Thiếu Dung: “Ừm, vậy là đúng rồi”.

Triển Hành: “Những thứ này có gì hay ho thế?”.

Lục Thiếu Dung: “Ừ, quả thật rất hay ho, bất cứ một mảnh chữ khắc nào bị ấn vào tận đáy thì những vật nhọn đó sẽ bắn ra ngoài”.

Triển Hành: “?”

Lục Thiếu Dung: “Chúng là những đầu thương rất nhọn, khi nô lệ bị đuổi vào trong cái đỉnh khổng lồ này, cơ quan sẽ khởi động, hơn một ngàn cây thương dài bằng kim loại sẽ rào rào bắn ra cùng một lúc, xuyên toàn bộ sinh vật còn sống trong đỉnh vào thương”.

Triển Hành: “…”

Chú Tiêu: “…”

Lâm Cảnh Phong: “…”

 

Chú thích:

[1] Home-run là 1 thuật ngữ bóng chày, chỉ cú đánh cực mạnh và cao khiến bóng bay ra khỏi cầu trường.

[2] Chữ chung đỉnh, hay còn gọi là kim văn hay minh văn, là loại văn tự được khắc hoặc đúc trên đồ đồng thời xưa, kế thừa của giáp cốt văn, xuất hiện cuối đời nhà Thương, thịnh hành vào thời Tây Chu.


Vui lòng click vào dấu mũi tên để lùi hoặc sang chương kế tiếp